Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở TAND huyện Mường Ảng mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 97/2021/TLST- HS, ngày 07 tháng 9 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2021/QĐXXST-HS, ngày 13/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1995, nơi sinh: huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; Bố đẻ: Lường Văn T, sinh năm 1964 và mẹ đẻ Lường Thị L, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 06 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ và con; Tiền án: 01 tiền án ngày 09/9/2020 bị TAND huyện Mường Ảng xử phạt 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 45/2020/HSST, ngày 25/4/2021 chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Không; Nhân thân: Đã bị kết án; chưa bị xử lý hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/7/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Họ và tên Cà Văn M, sinh năm 1995, Nơi cư trú: Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Lường Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 13/7/2021 Lường Văn T là người đã bị kết án tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích gặp và rủ Cà Văn M, sinh năm 1995, trú cùng Bản B1, xã AT, huyện MA góp tiền mua ma túy sử dụng thì được M đồng ý. M góp 80.000đ đưa cho T, còn T góp được 10.000đ. Sau khi góp được tiền M điều khiển xe máy BKS 27Y1 – 040.51 chở T đến bản CN, xã AT tìm mua ma túy, khi đến đoạn đường ngõ thuộc bản CN T xuống xe đi bộ vào trong ngõ thì gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết tự giới thiệu tên là Cường 02 gói nhỏ Heroine được gói bằng mảnh giấy trắng với giá 90.000đ. Mua được ma túy T cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi ra chỗ M đang dừng xe bảo M trở về tìm chỗ sử dụng. Khi T và M về đến đoạn đường thuộc Bản B1, xã AT thì gặp tổ công tác Công an xã AT đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Tổ công tác yêu cầu T mang ma túy ra giao nộp, thì T tự giác lấy 01 gói Heroine có khối lượng 0,08 gam ra giao nộp, còn 01 gói Heroine thì T không biết đã làm rơi ở đâu.

Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 14/7/2021 của Công an huyện Mường Ảng và Kết luận giám định số 830/GĐ-PC09, ngày 20 tháng 7 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lường Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Lường Văn T là 0,08 gam - Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 09, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Tại bản cáo trạng số: 75/CT-VKSMA ngày 06/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Lường Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt Lường Văn T từ 12 đến 16 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu để tiêu hủy: 0,04 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.

- Chấp nhận việc trả lại đồ vật, tài liệu của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Ảng cho chị Cà Thị X, sinh năm 1990, trú tại Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên 01 chiếc xe mô tô màu sơn đỏ - đen – bạc, loại xe WAVE, nhãn hiệu Honda, BKS 27Y1-040.51, số khung 632813, số máy 3432953 xe cũ qua sử dụng (xe thu giữ của Cà Văn M) theo Quyết định xử lý vật chứng số 26/QĐ, ngày 26/8/2021.

Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án:

Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Lường Văn T đã khai và công nhận: Khoảng 21 giờ ngày 13/7/2021 tại Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên bị cáo bị bắt vì đang tàng trữ trái phép 0,08 gam Heroine, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 75/CT-VKS-MA, ngày 06/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo đã bị kết án tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 25/4/2021 chấp hành xong án phạt tù, chưa được xóa án tích, bị cáo lại tàng trữ trái phép 0,08 gam Heroine. Vì vậy có đủ căn cứ buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ... đã bị kết án về tội này..., chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;”

[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 5 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.

[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra: Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được bố mẹ sinh ra và lớn lên tại huyện MA, tỉnh Điện Biên, bị cáo học hết lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Ngày 09/9/2020 bị TAND huyện Mường Ảng xử phạt 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 45/2020/HSST, ngày 25/4/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo vẫn cố ý mua và tàng trữ trái chất ma túy với mục đích để sử dụng. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, khi bị kiểm tra bị cáo đã tự giác giao nộp ma túy cho tổ công tác, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 cho bị cáo. Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.

Bị cáo với nghề nghiệp làm ruộng, ngoài ra không có thu nhập nào khác, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Đối với người đàn ông dân tộc Thái tự giới thiệu tên là Cường, người mà Lường Văn T khai đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ ở đâu, Cơ quan CSĐT không có đủ cơ sở xác minh làm rõ.

- Đối với Cà Văn M cùng với T tàng trữ trái phép 0,08 gam Heroine, do khối lượng ma túy chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên cơ quan Công an đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Hội đồng xét xử:

- Tịch thu để tiêu hủy: 0,04 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.

- Chấp nhận việc trả lại đồ vật, tài liệu theo Quyết định xử lý vật chứng số 26/QĐ, ngày 26/8/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Ảng cho chị Cà Thị X, sinh năm 1990, trú tại Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên 01 chiếc xe mô tô màu sơn đỏ - đen – bạc, loại xe WAVE, nhãn hiệu Honda, BKS 27Y1-040.51, số khung 632813, số máy 3432953 xe cũ qua sử dụng (xe thu giữ của Cà Văn M và Lường Văn T).

[7] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Quyết định truy tố của VKSND huyện Mường Ảng; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[10] Trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lường Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 14/7/2021).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu để tiêu hủy: 0,04 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Ảng và Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng lập ngày 06/9/2021).

- Chấp nhận việc trả lại đồ vật, tài liệu theo Quyết định xử lý vật chứng số 26/QĐ, ngày 26/8/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Ảng cho chị Cà Thị X, sinh năm 1990, trú tại Bản B1, xã AT, huyện MA, tỉnh Điện Biên 01 chiếc xe mô tô màu sơn đỏ - đen – bạc, loại xe WAVE, nhãn hiệu Honda, BKS 27Y1-040.51, số khung 632813, số máy 3432953 xe cũ qua sử dụng (xe thu giữ của Cà Văn M và Lường Văn T).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại UBND cấp xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về