TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 137/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: La Văn B; tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/7/1993, tại xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Bản K, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn O và bà Lô Thị Đ; có vợ là Lương Thị L và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.
2. Họ và tên: Vy Văn X; tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/6/1998, tại xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Bản C, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vy Hồng Q và bà Vy Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 (một) tiền án: Ngày 30/7/2018 bị TAND huyện Kỳ Sơn xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong án phạt tù ngày 15/4/2019, chưa được xóa án tích; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021 đến nay; hiện đang tạm giam; Có mặt.
Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Lê Công Thiết-Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Quang Thị K; sinh năm 1990; trú tại: Bản C, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Người chứng kiến: Anh Lô Bún M; sinh năm 1986; trú tại: Bản K, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ ngày 25/3/2021, La Văn B đi bộ từ nhà của mình ở Bản K đến nhà của Vy Văn X ở Bản C, xã C, huyện K để rủ Xáo đi vào trong bản C, xã L, huyện T để tìm mua ma túy sử dụng, Vy Văn X đồng ý và lấy chiếc xe máy biển kiểm soát 37K1-068.06 của chị Quang Thị K, sinh năm 1990, trú tại Bản C, xã C, huyện K điều khiển chở B đi vào xã L, huyện T để mua ma túy sử dụng. Khi B và X đến khu vực bản C, xã L, huyện T thì thấy một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đi ngược chiều, X dừng xe máy lại, B hỏi người đàn ông đó là “anh có không” (nghĩa là anh có ma túy bán không), người đàn ông đó nói “có”, đồng thời đi bộ vào trong khe, B và X đi theo sau người đàn ông đó vào cách đường khoảng 05 m (năm mét), B lấy 100.000 đồng (Một trăm nghìn) đưa cho người đàn ông đó, người đó cầm lấy tiền rồi lấy 01 (một) gói Heroine được gói bằng bao potylen màu trắng ra rồi dùng tờ tiền cuốn lại xúc một ít Heroine đổ vào mảnh giấy bạc mà B đã chuẩn bị sẵn. Mua được ma túy, B lấy một ít Heroine cho X sử dụng bằng hình thức hút và B cũng lấy một ít Heroine sử dụng bằng hình thức chích, số Heroine còn lại B bỏ vào một bơm kim tiêm màu trắng đục cất giấu trong túi áo bên trái. Sau khi sử dụng ma túy xong, B và X đi ra nơi để xe máy, X điều khiển xe chở B đi về nhà. Khi cả hai về đến khu vực bản T, xã C, huyện K thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số tang vật trên.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 08 giờ 30 phút, ngày 26/3/2021 đã xác định: Chất màu trắng (nghi là ma túy) thu giữ của La Văn B và Vy Văn X sau khi loại bỏ bơm kim tiêm có khối lượng 0,1 gam (Không phẩy một).
Kết luận giám định số 481/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 30/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của La Văn B và Vy Văn X gửi tới giám định là ma túy (Heroine).
Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý (Heroine) là vật chứng thu giữ của La Văn B và Vy Văn X đã lấy đi giám định hết, còn vỏ giấy niêm phong ban đầu đã được Cơ quan điều tra chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn bảo quản theo quy định. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn vàng-đen, BKS: 37K1-068.06 mà La Văn B và Vy Văn X sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của chị Quang Thị K, sinh năm 1990, trú tại Bản C, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An, chị K không biết các đối tượng sử dụng chiếc xe để đi mua ma túy nên ngày 22/4/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy cho chị Quang Thị K.
Cáo trạng số: 70/CT-VKS-KS ngày 24/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố các bị cáo La Văn B và Vy Văn X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo La Văn B và Vy Văn X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo La Văn B mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vy Văn X mức án từ 13 (Mười ba) đến 16 (Mười sáu) tháng tù; về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo; về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư màu trắng đang niêm phong, bên trong có chứa bơm kim tiêm màu trắng đục và vỏ giấy niêm phong ban đầu; về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho các bị cáo trình bày: Về tội danh và điều luật áp dụng đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xử phạt các bị cáo mức án thấp nhất mà đại diện Viện Kiểm Sát đã đề nghị, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
Tại phiên tòa, các bị cáo La Văn B, Vy Văn X đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có tranh luận gì. Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.
[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến nhưng đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ. Do đó sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử là có căn cứ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo La Văn B, Vy Văn X đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ, ngày 25/3/2021, tại khu vực bản T, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An, La Văn B và Vy Văn X đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1 gam (Không phẩy một) ma túy (Heroine) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi đó của các bị cáo La Văn B và Vy Văn X đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
a)……………………………………………………….
c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo tuổi đời còn trẻ, không chịu khó lao động, lại ăn chơi đua đòi, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.
Đây là vụ án có đồng phạm nên phải phân hóa hành vi của mỗi bị cáo để lên cho mỗi bị cáo một mức án phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo. Đối với bị cáo La Văn B thực hiện tội phạm với vai trò là khởi xướng, rủ rê nên cần phải xem xét mức án cao hơn.
Đối với bị cáo Vy Văn X, do bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực, mặc dù giữ vai trò thứ yếu nhưng phải chịu trách nhiệm do chính hành vi mà mình đã gây ra. Ngoài ra, ngày 30/7/2018 bị cáo Vy Văn X đã bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/4/2019, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục con đường phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật, phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo La Văn B và Vy Văn X đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên xét thấy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.
[6] Các đối tượng liên quan: Trong vụ án này còn có người đàn ông dân tộc Thái đã bán ma túy cho La Văn B và Vy Văn X, quá trình điều tra không xác định được danh tính cụ thể, Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
[7] Về vật chứng vụ án: Chiếc bơm kim tiêm màu trắng đục và vỏ giấy niêm phong ban đầu, đây là vật không có giá trị sử dụng nên cần phải tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn vàng-đen, BKS: 37K1- 068.06 mà các bị cáo La Văn B, Vy Văn X sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của chị Quang Thị K, sinh năm 1990, trú tại Bản C, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An, chị K không biết các bị cáo sử dụng chiếc xe thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[8] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và mức hình phạt:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo La Văn B 13 (Mười ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 25/3/2021).
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vy Văn X 16 (Mười sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 25/3/2021).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: Một phong bì thư màu trắng, đang niêm phong, dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và ghi tên của La Văn B và Vy Văn X, bên trong có chứa chiếc bơm kim tiêm màu trắng đục và vỏ giấy niêm phong ban đầu. (Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/5/2021 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo La Văn B và Vy Văn X mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/9/2021). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 137/2021/HSST
Số hiệu: | 137/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về