Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 95/2021/HS-ST NGÀY 06/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Phan Văn T, sinh năm 1995, tại tỉnh C; địa chỉ thường trú: Ấp T, xã H, huyện N, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn C và bà Lê Thị D; có vợ tên Hữu Hồng Đ và có một con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương từ ngày 27/01/2021 đến ngày 05/02/2021 chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lê Văn D, sinh năm 1987, tại thành phố T; địa chỉ thường trú: Ấp L, xã Q, huyện V, thành phố T; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương từ ngày 27/01/2021 đến ngày 05/02/2021 chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1985; nơi cư trú: Ấp 1, xã T, huyện H, tỉnh L; Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn T và Lê Văn D đều là đối tượng sử dụng ma túy, loại ma túy T và D thường sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine). T và D cùng làm công trình xây dựng tại phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Sáng ngày 26/01/2021, T điều khiển xe mô tô biển số 62H8 – 9451 chở D đi từ phòng trọ của D tại nhà trọ Ánh Hồng, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đến Công trình tại thành phố Thủ Dầu Một, Bình Dương để làm việc. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày thì D và T gặp quản lý công trình xây dựng để ứng tiền công mỗi người 200.000 đồng và T giữ toàn bộ số tiền 400.000 đồng. Sau đó, T điều khiển xe chở D đi đến quán ăn không rõ tên thuộc phường Phú Chánh, thị xã Tân Uyên, Bình Dương để uống bia cùng với một người bạn của D và T (tên thường gọi là “độc nhãn” chưa rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ cụ thể). Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi uống bia xong, lúc này D rủ T đi mua ma túy đá về sử dụng và góp mỗi người số tiền 200.000 đồng (tiền công ứng trước T đang giữ), T đồng ý. Còn người bạn đi đâu D và T không rõ. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 62H8 - 9451 chở D đi đến khu vực chợ đầu mối Thủ Đức thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gặp một nam thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) đang điều khiển xe mô tô nên T có hỏi “còn đồ không” (nghĩa là còn ma túy đá hay không) thì nam thanh niên trả lời “còn có mấy trăm à” nghe nói vậy T nói “bán cho 400.000 đồng” người thanh niên này đồng ý rồi dừng xe lại và đưa cho T một vỏ gói thuốc Jet bên trong có ma túy đá, T đưa số tiền 400.000 đồng cho người thanh niên này. Đồng thời, T mở gói thuốc Jet ra xem, nhìn thấy bên trong gói thuốc có ba gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, T cất giấu vào trong túi quần phía sau bên trái. Sau đó, T điều khiển xe mô tô chở D về phòng trọ số 05 nhà trọ Trần Thị Ánh Hồng thuộc khu phố Tân An, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, Bình Dương của D để cùng nhau sử dụng ma túy đá. Khi về đến phòng trọ của D do không có dụng cụ sử dụng ma túy đá nên T điều khiển xe đi tìm nhưng không có. Sau đó, T điều khiển xe quay về phòng trọ của D, lấy bên trong vỏ gói thuốc Jet ra ba gói ny lon chứa chất tinh thể màu trắng và cất giấu số ma túy này vào trong túi quần phía sau bên trái. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Công an phường Tân Vĩnh Hiệp tiến hành kiểm tra hành chính nhà trọ Trần Thị Ánh Hồng thuộc khu phố Tân An, phường Tân Vĩnh Hiệp, thị xã Tân Uyên, Bình Dương, khi kiểm tra đến phòng trọ của D, phát hiện T và D có biểu hiện ghi vấn nên yêu cầu D và T lấy đồ vật ra kiểm tra thì T lấy từ trong túi quần phía sau bên trái ra ba gói nylon chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá giao nộp cho lực lượng Công an tiến hành niêm phong tang vật đưa T và D về trụ sở Công an phường Tân Vĩnh Hiệp làm việc. Qua làm việc T và D khai nhận số ma túy Công an thu giữ là của T và D góp tiền chung để mua về nhằm mục đích sử dụng. Công an phường Tân Vĩnh Hiệp tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số 58/MT-PC09 ngày 03/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng/trọng lượng: 0,1539 gam (M1); 0,3077 gam (M2), loại Methamphetamine. Tổng trọng lượng là 0,4616 gam.

Công an phường Tân Vĩnh Hiệp tạm giữ: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Fashion, màu xanh biển số 62H8 – 9451, số khung: VTLBCH023TL- 012519, số máy: VTLZS152FMH-00012519 do Nguyễn Văn Nhanh (sinh năm 1985. ĐKHKTT: Ấp 1, xã Thạnh Hưng, huyện Tân Hưng, Long An) đứng tên chủ sở hữu. T khai mua xe mô tô trên của Nhanh với số tiền là 600.000 đồng không có giấy tờ mua bán và không có giấy đăng ký xe. Qua làm việc Nhanh khai nhận có bán chiếc xe mô tô trên lại cho T để làm phương tiện đi lại vào khoảng tháng 10/2020 với số tiền là 600.000 đồng.

Đối với đối tượng nam thanh niên có hành vi bán ma túy đá cho T và D kết quả điều tra, xác minh đến nay chưa xác định được nhân thân lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên sẽ tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Cáo trạng số 105/CT-VKSTU ngày 11-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo Phan Văn T và Lê Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù và bị cáo Lê Văn D từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự:

+ Xe mô tô biển số 62H8-9451 hiệu Fashion màu xanh, số máy VTLZS152FMH-00012519, số khung VTLBCH023TL-012519 không có giấy tờ, không có trong dữ liệu vật chứng, là phương tiện phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

+ 01 bì thư có ký hiệu 58/MT-PC09 bên trong có chứa chất ma túy thành phần Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, vận chuyển, mua bán nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận mà chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng, các bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 26/01/2021, các bị cáo Phan Văn T và Lê Văn D có hành vi cất giữ 0,4616 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi này nhưng vì mục đích muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân, coi thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện. Do đó, để có tác dụng giáo dục, răn đe các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời, nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội, xét thấy, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Phan Văn T và bị cáo Lê Văn D có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phan Văn T và bị cáo Lê Văn D phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[7] Về vai trò đồng phạm: Hành vi phạm tội của các bị cáo là hành vi đồng phạm giản đơn, vai trò đồng phạm của từng bị cáo là ngang nhau.

Do các bị cáo có cùng hành vi phạm tội, nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, cùng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và có vai trò đồng phạm ngang nhau nên khi quyết định hình phạt thì mức hình phạt áp dụng cho các bị cáo là ngang nhau. Xét thấy, mức hình phạt đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Fashion, màu xanh biển số 62H8 – 9451, số khung VTLBCH023TL-012519, số máy: VTLZS152FMH-00012519 do Nguyễn Văn Nhanh (sinh năm 1985. ĐKHKTT: Ấp 1, xã Thạnh Hưng, huyện Tân Hưng, Long An) đứng tên chủ sở hữu. Ông Nguyễn Văn Nhanh đã bán chiếc xe này cho T. Xét thấy, chiếc xe này không có trong dữ liệu vật chứng, không có giấy tờ và là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 bì thư có ký hiệu 58/MT-PC09 bên trong có chứa chất ma túy thành phần Methamphetamine là chất cấm tàng trữ, vận chuyển, mua bán nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

1. Tuyên bố bị cáo Phan Văn T và bị cáo Lê Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Phan Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27/01/2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Lê Văn D 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27/01/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Fashion, màu xanh biển số 62H8 – 9451, số khung: VTLBCH023TL- 012519, số máy: VTLZS152FMH-00012519.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) bì thư có ký hiệu 58/MT-PC09 bên trong có chứa chất ma túy thành phần Methamphetamine.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

4. Về án phí hình sự: Căn cứ vào Điều 136, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phan Văn T và bị cáo Lê Văn D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5 Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2021/HS-ST

Số hiệu:95/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về