TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 94/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 99/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tòng Văn H; tên gọi khác: Không.
Sinh ngày: 14/5/1975, tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.
Nơi cư trú: Bản T, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 3; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tòng Văn P, sinh năm 1952 và con bà Lò Thị D, sinh năm 1954; bị cáo có vợ là Quàng Thị B, sinh năm 1974 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo đã bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/6/2021, tạm giam ngày 19/6/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thương, Luật sư - Thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/6/2021, bị cáo Tòng Văn H đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết từ khu vực đường thuộc bản T, xã Q, huyện T ra khu vực bản N, xã Q, huyện T để tìm mua ma túy. Khi đến nơi bị cáo gặp một người phụ nữ không biết tên tuổi, địa chỉ, qua trao đổi bị cáo mua của người phụ nữ đó 01 gói Heroine với giá 250.000đ ( hai trăm năm mươi nghìn đồng). Việc trao đổi mua bán Heroine chỉ có bị cáo cùng người phụ nữ đó biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Sau khi mua được Heroine, bị cáo cất giấu vào trong chiếc ví da nhằm mục đích để sử dụng. Từ ngày 14/6/2021 đến 16/6/2021, bị cáo đã sử dụng 04 lần Heroine bằng hình thức trích, số Heroine còn lại đến 19 giờ ngày 16/6/2021 bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine có khối lượng 0,28 gam. Cơ quan điều tra trích 0,07 gam chất bột màu trắng gửi làm mẫu vật giám định, vật chứng còn lại là 0,21 gam Heroine; tạm giữ của bị cáo 01 ví da màu đen đã qua sử dụng, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Tòng Văn H.
Tại bản Kết luận giám định số: 716/GĐ-PC09 ngày 27/6/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn H gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine; khối lượng vật chứng thu giữ của Tòng Văn H là 0,28 gam” Tại bản Cáo trạng số: 82/CT-VKS-TG ngày 06 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Tòng Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.
Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,21 gam Heroine vật chứng còn lại của vụ án, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng; trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân mang tên Tòng Văn H. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Ngƣời bào chữa cho bị cáo: Người bào chữa nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Kiểm sát viên xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức án thấp nhất có thể cho bị cáo, không phạt bổ sung bằng tiền và miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng, lời bào chữa và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 14/6/2021, bị cáo Tòng Văn H đi nhờ xe máy của một người đàn ông không quen biết từ khu vực đường thuộc bản T, xã Q, huyện T đến khu vực bản N, xã Q, huyện T mua ma túy của một người phụ nữ không biết tên, tuổi địa chỉ 01 gói Heroine với giá 250.000đ (hai trăm năm mươi nghìn đồng) mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, từ ngày 14/6/2021 đến ngày 16/6/2021 bị cáo đã sử dụng 04 lần Heroine, số Heroine còn lại đến 19 giờ ngày 16/6/2021 bị Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo Tòng Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng ma túy là 0,28 gam Heroine. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Tòng Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[2] Về tính chất và mức độ của vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo từ nhỏ sống phụ thuộc vào gia đình tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên, được đi học đến lớp 3, sau đó nghỉ học ở nhà sản xuất nông nghiệp; năm 2010 nghiện chất ma túy; Bị cáo bị xét xử tại Bản án số 03/2016/HSST ngày 27/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu, tuyên phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đến nay đã được xóa án tích. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.
[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy nghề nghiệp của bị cáo là sản xuất nông nghiệp, sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Kiểm sát viên đề nghị: Xét thấy mức hình phạt Kiểm sát viên đã đề nghị là chưa phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[6] Ngƣời bào chữa đề nghị đối với bị cáo: Xét thấy mức hình phạt người bào chữa đã đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra bị cáo khai không biết tên, địa chỉ của người phụ nữ đó. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Vật chứng vụ án: Đối với gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,21 gam Heroine vật chứng còn lại của vụ án, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 thẻ căn cước công dân mang tên Tòng Văn H cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[9] Về hành vi và các quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.
[10] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
1. Về tội danh: Bị cáo Tòng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Về hình phạt: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tòng Văn H 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2021.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa 0,21 gam Heroine vật chứng còn lại của vụ án, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì cũ dùng để niêm phong vật chứng, 01 ví da màu đen đã qua sử dụng; trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân mang tên Tòng Văn H theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/9/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.
4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 16/9/2021).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2021/HS-ST
Số hiệu: | 94/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về