Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 43/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 43/2021/HSST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2021/TLST- HS ngày 31 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45 /2021/QĐXXST- HS ngày 16/9/2021 đối với các bị cáo:

1. Vàng A G ; (tên gọi khác Vàng A Gi) Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1964, tại huyện B, tỉnh Lào Cai.

Trú tại: Thôn P, xã Y, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: Không biết chữ ;

Dân tộc: H’Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam;

Con ông Vàng Seo L (đã chết) và bà Giàng Thị C (đã chết).

Vợ: Thào Thị C, sinh năm 1967.

Trú tại: Thôn P, xã Y, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Con: Bị cáo có 04 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Nhân thân: Bản án số 13/HSST ngày 22/6/2003 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai xử phạt Vàng A G (Vàng A gi) 33 tháng tù về tội “tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy”. Tính đến ngày phạm tội 24/7/2021 đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2021. Hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Vàng A G là bà Trần Thị C - Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

2. Chu Có X ; tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 08 tháng 5 năm 1993, tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Trú tại: Thôn L, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Hà Nhì; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Chu Gì C, sinh năm 1967 và bà Sần Xá N, sinh năm 1967.

Đều trú tại Thôn L, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Vợ: Lý Go S, sinh năm 1998. Trú tại: Thôn L, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai. Con: Bị cáo có 01 con, sinh năm 2019.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Nhân thân: Bị cáo là người thường xuyên sử dụng chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2021. Hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.

3. Sần Che H ; tên gọi khác: Không.

Sinh năm 1989 ( không xác định được ngày, tháng sinh), tại huyện B, tỉnh Lào Cai.

Trú tại: Thôn L, xã Trịnh T, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 4/12; Dân tộc: Hà Nhì; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông Sần Giờ V, sinh năm 1965 và bà Phá Sừ B, sinh năm 1970.

Đều trú tại Thôn L, xã T, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vợ, con: Bị cáo chưa có vợ con Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Nhân thân: Quyết định số 39/2017/QĐ-TA ngày 02/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện B về việc xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Sần Che H, thời hạn 12 tháng. Đến ngày 15/4/2018 Sần Che H đã chấp hành xong. Tính đến ngày phạm tội đã được xóa tiền sự.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/7/2021. Hiện tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho hai bị cáo Chu Có X và Sần Che H là bà Nguyễn Thị Hương T Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau: Khoảng 0 giờ 30 phút ngày 24/7/2021 Công an huyện B phát hiện bắt quả tang. Thu giữ của Sần Che H 01 (một) gói nilon màu hồng, bên trong có 06 (sáu) gói nilon màu hồng đều chứa chất bột khô màu trắng, vón cục (Sần Che H khai nhận là Hêrôin Sần Che H vừa mua của Vàng A G với giá 400.000 (bốn trăm nghìn đồng) để sử dụng. Vàng A G đã tự giác lấy từ túi áo ngực bên trái số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn đồng) và khai nhận là tiền vừa bán Hêrôin cho Sần Che H và Chu Có X mà có. Quá trình điều tra đã xác định. Vào thời gian cuối tháng 6 năm 2021, Vàng A G mua 01 (một) gói ma túy với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực xã M, huyện B. Sau đó Vàng A G dùng chiếc kéo chia nhỏ số ma túy mua được và gói lại bằng các mảnh nilon màu hồng để sử dụng dần và bán kiếm lời, đến ngày 24/7/2021, số ma túy mua được sau khi Vàng A G đã sử dụng còn lại 06 (sáu) gói. Khoảng 0 giờ 00 phút ngày 24/7/2021, Chu Có X ở nhà tại thôn L, xã Trịnh T thì nảy sinh ý định đi mua ma túy về để sử dụng. Chu Có X điều khiển xe mô tô Win, biển kiểm soát 24B2 - 645.27 đi đến nhà Sần Che H ở cùng thôn và rủ Sần Che H đi mua ma túy về sử dụng, Sần Che H đồng ý. Chu Có X và Sần Che H mỗi người góp 200.000 (hai trăm nghìn đồng) được tổng số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn đồng), Sần Che H là người cầm tiền ngồi sau xe mô tô do Chu Có X điều khiển đi đến nhà Vàng A G ở thôn P, xã Y để mua ma túy. Khi đến nơi, Sần Che H hỏi và mua của Vàng A G 06 (sáu) gói ma túy được gói bằng nilon màu hồng với giá 400.000 đồng thì bị tổ công tác của Công an huyện B phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vàng A G thu giữ 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại, dạng kéo gấp tại vị trí vách ngăn trong phòng ngủ của Vàng A G. Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 24B2 – 645.27 của Chu Có X.

Ngày 24/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ của Sần Che H và Chu Có X ngày 24/7/2021.

Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định giữa Công an huyện B và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai ngày 24/7/2021 đã xác định: 01 (một) gói được gói bằng nilon màu hồng bên trong có 06 (sáu) gói, mỗi gói đều được gói bằng nilon màu hồng, bên trong mỗi gói đề chứa chất bột khô màu trắng, vón cục thu giữ của Sần Che H và Chu Có X ngày 24/7/2021 có tổng khối lượng 0,69 (không phẩy sáu mươi chín) gam, trích mẫu 0,07 (không phẩy không bẩy) gam để giám định, còn lại 0,62 (không phẩy sáu mươi hai) gam hoàn trả cơ quan trưng cầu.

- Kết luận giám định ma túy số 205/GĐMT ngày 27/7/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,69 (không phẩy sáu mươi chín) gam chất bột khô màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine (Hêrôin).

Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai, truy tố bị cáo Vàng A G về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Hai bị cáo Sần Che H và Chu Có X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Vàng A G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Hai bị cáo Sần Che H và Chu Có X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” + Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s,x khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A G từ 02 (hai) năm tháng đến 02 (sáu) năm 06 tháng tù.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Chu Có X từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo Sần Che H từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

+ Về vật chứng: Áp dung điểm khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,62 (không phẩy sáu mươi hai) gam Hê rô in còn lai sau trích mẫu giám định cùng các mảnh nilon màu hồng, bì niêm phong ban đầu gửi giám định, được tái niêm phong trong bì thư và 01 chiếc kéo bằng kim loại dạng gấp. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 400.000 đồng, thu giữ của bị cáo Vàng A G.

+ Về án phí: Buộc hai bị cáo Sần Che H và Chu Có X phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A G, vì bị cáo G là con liệt sỹ.

- Ý kiến của người bào chữa: Sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá chứng cứ cho rằng: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Vàng A G về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

02 bị cáo Sần Che H và Chu Có X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xong cũng cần xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo, vì bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, các bị cáo đều thành khẩn khai báo và nhận tội. Ngoài ra bị cáo Vàng A G còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự vì bố bị cáo là liệt sỹ. Nên đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A G mức thấp nhất của khung hình phạt là 02 (hai) năm tù. Xử phạt bị cáo Chu Có X 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Bị cáo Sần Che H 01 (một) năm tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và hình phạt: Tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo và nhận tội đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy đã đủ cơ sở kết luận bị cáo Vàng A G đã mua ma túy về sử dụng và bán 0,69 gam Hê rô in cho bị cáo Sần Che H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ Luật hình sự. Hai bị cáo Sần Che H và Chu Có X đều là người nghiện ma túy đã góp tiền cùng nhau mua của bị cáo Vàng A G 0,69 gam Hê rô in với mục đích sử dụng chung đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và cần áp dụng Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự, để quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tham gia trong đồng phạm đối với hai bị cáo X và H. Trong vụ án này bị cáo Chu Có X là người khởi sướng, rủ bị cáo H cùng thực hiện một tội phạm và là người điều khiển xe mô tô chở bị cáo H đi mua ma túy, nên giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Sần Che H là người trực tiếp giao dịch mua và cất giấu ma túy, giữ vai trò thứ hai trong vụ án.

Hành vi của các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Gây mất trật tự, trị an ở địa phương, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe, suy thoái giống nòi, là mầm mống dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Để giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, góp phần đẩy lùi và loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Cần phải đưa các bị cáo ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật và quyết định mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Vàng A G, Chu Có X, Sần Che H đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và đều được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đều thành khẩn khai báo. Ngoài ra bị cáo Vàng A G có bố đẻ là liệt sỹ nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[2] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo đều là người nghiện ma túy, không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[3] Về vật chứng gồm: 0,62 gam gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định là vật cấm tàng trữ lưu hành; các mảnh nilon màu hồng, bì niêm phong ban đầu gửi giám định và 01chiếc kéo bằng kim loại, kéo dạng gấp, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 400.000 đ ( bốn trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo Vàng A G bán ma túy mà có, nên tịch thu nộp ngân sách số nhà nước.

[4] Về các vấn đề liên quan trong vụ án: Đối với người phụ nữ bị cáo Vàng A G khai đã bán ma túy cho bị cáo vào cuối tháng 6/2021 tại khu vực rừng già xã M, huyện B. Do không xác định được tên, tuổi và địa chỉ của người này, nên không đủ căn cứ để xử lý.

- Chiếc 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu ESPERO, loại xe WIN, biển kiểm soát 24B2 - 645.27 đã thu giữ của Chu Có X. Quá trình điều tra đã chứng minh làm rõ chiếc xe mô tô là của Hoàng Văn L, sinh năm 1986, trú tại thôn P, xã T, huyện B. Hoàng Văn L không biết Chu Có X mượn chiếc xe mô tô trên vào việc đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Hoàng Văn L là đúng quy định của pháp luật.

[5] Về hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện B, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và bị cáo, người bào chữa không có khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về án phí: Hai bị cáo Chu Có X, Sần Che H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Do bị cáo Vàng A G là thân nhân liệt sĩ nên được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Vàng A G (tên gọi khác Vàng A Gi) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo Chu Có X và Sần Che H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về mức hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s,x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo Vàng A G 02 (hai) năm tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử Phạt bị cáo Chu có X 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Bị cáo Sần Che H 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với các bị cáo, tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 24/7/2021.

3. Xử lý vật chứng : Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,62 (không phẩy sáu mươi hai) gam Hêrôin còn lại sau trích mẫu giám định cùng các mảnh nilon màu hồng, bì niêm phong ban đầu gửi giám định, được tái niêm phong trong bì thư. Tại mép dán của bì niêm phong có chữ ký của Đặng Minh Đổng, Trần Xuân Hiệu, Chu Có X, Sần Che H; 01 điểm chỉ có ghi “trỏ phải của Vàng A G”; 02 hình dấu tròn màu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt bì niêm phong có ghi: “vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Sần Che H và Chu Có X ngày 24/7/2021 tại thôn P, xã Y, huyện Bát X, tỉnh Lào Cai và 01 (một) chiếc kéo bằng kim loại, dạng kéo gấp đã qua sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Vàng A G, số tiền trên được niêm phong gửi tại kho bạc nhà nước huyện B, tỉnh Lào Cai, theo biên bản giao nhận tài sản số 12/2021/BBGN - KBBX ngày 28/7/2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và kho Bạc nhà nước huyện B, tỉnh Lào Cai.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án. Buộc hai bị cáo Chu Có X và Sần Che H mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A G.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 43/2021/HSST

Số hiệu:43/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về