Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 89/2024/HS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 88/2024/TLST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2024/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Văn B (tên gọi khác: Không), sinh ngày 25/5/1993; Nơi sinh huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Tk 3/2, xã CS, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Trần Ngọc C, sinh năm: 1962; con bà Phạm Thị L, sinh năm: 1965; Vợ Lường Thị H và có 04 con.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Năm 2013, Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số: 136/2013/HS-ST ngày 05/6/2013. (Đã được xóa án tích).

- Năm 2018 Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo bản án số 144/2018/HS- ST ngày 28/6/2018 (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2024 đến cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lường Thị H, sinh năm: 1991, trú tại: Tk 3/2, xã CS, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 10 phút ngày 03/01/2024, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại tiểu khu 4, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra, phát hiện Trần Văn B đang điều khiển xe trên đường cất giấu tại túi quần bên phải đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bên trong đựng 01 gói giấy màu vàng chứa cục chất bột màu trắng và 01 gói nilon màu trắng đựng viên nén màu hồng (Bảo khai nhận đó là ma tuý để sử dụng cho bản thân). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA biển kiểm soát: 26G1-X.

Cùng ngày tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng K ỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã ti ến hành mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu trưng cầu giám định: Chất cục bột màu trắng có khối lượng 0,04 gam. Kết quả giám định là ma túy; loại Heroine, viên nén màu hồng có khối lượng 0,09 gam. Kết quả giám định là ma túy; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy. Khoảng 08 giờ ngày 03/01/2024, Bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA, BKS: 26G1-X của vợ là Lường Thị H, sinh năm: 1991, trú tại: Tiểu khu 3/2, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La đi đến bản Buốc Pát, xã Lóng Sập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 02 viên hồng phiến được gói bằng mảnh nilon màu trắng và gói Heroine được gói bằng mảnh giấy màu vàng đựng trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long với giá 40.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo lấy một viên hồng phiến và một ít Heroine sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo gói lại như cũ cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về. Trên đường đi đến tiểu khu 4, xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKS, ngày 05 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Trần Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Văn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn B từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì đựng test thử ma túy.

- Trả lại cho chị Lường Thị H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, BKS: 26G1-X.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu và khẳng định lời khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn tự nguyện đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 10 phút ngày 03/01/2024, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định số 218 ngày 04/01/2024 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 03/01/2024 Trần Văn B có hành vi tàng trữ trái phép 0,04 gam ma túy loại Heroine và 0,09 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Trần Văn B đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Trần Văn B là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, đã có hai tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy làm bài học cho bản thân để từ bỏ chất ma túy trở thành người có ích cho gia đình và xã hội nay tiếp tục phạm tội mới. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, cần xử lý nghiêm minh, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để cải tạo, giáo dục bị cáo và nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, tuy nhiên khi lượng hình cần cân nhắc quá trình điều tra tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận tội là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy, qua xác minh bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, là đối tượng nghiện chất ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 phong bì đựng 01 mảnh giấy bạc màu vàng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long và phong bì niêm phong ban đầu; 01 phong bì đựng test thử ma túy là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô xe máy nhãn hiệu YAMAHA, BKS: 26G1-X bị cáo sử dụng đi mua ma túy, qua xác minh chiếc xe là tài sản hợp pháp của chị Lường Thị H (vợ bị cáo), việc bị cáo Bảo mang đi mua ma túy chị Hay không biết, không liên quan. Tại phiên tòa chị Lường Thị H có ý kiến xin lại xe, nên HĐXX cần chấp nhận.

[7] Về nguồn gốc chất ma túy:

- Đối với người đàn ông dân tộc Mông không quen biết bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai, do không biết tên, tuổi, địa chỉ người này nên không có căn cứ điều tra xử lý.

- Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày, nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Trần Văn B 32 (Ba mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2024.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đựng 01 mảnh giấy màu vàng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng nhãn hiệu Thăng Long và phong bì niêm phomng ban đầu; 01 phong bì đựng test thử ma túy.

Trả lại cho chị Lường Thị H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Sirius màu cam - đen, BKS: 26G1-X, số khung RLCUE 3240JY211156, số máy E3X9E567309, có 2 gương chiếu hậu, xe đã qua sử dụng, có chìa khóa kèm theo.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/3/2024).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Trần Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/3/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2024/HS-ST

Số hiệu:89/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về