Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2023/TLST- HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Quang R, sinh ngày 16/5/1992 tại xã Đông Hoàng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn L, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân D (đã chết) và bà Đặng Thị L; vợ là Trần Thị Thanh H (đã ly hôn năm 2020) và có 01 con; tiền sự: không; tiền án: Có 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 45/2016/HSST ngày 30/6/2016, Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải xử phạt bị cáo 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và án phí hình sự sơ thẩm nhưng chưa thi hành phần bồi thường trách nhiệm dân sự và khoản tiền tịch thu ngân sách nhà nước. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/6/2023 đến ngày 26/6/2023 chuyển tạm giam. Bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tiền Hải, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

+ Người làm chứng:

- Ông Trần Văn V, sinh năm 1960 (Vắng mặt)

- Anh Bùi Văn L, sinh năm 1983 (Vắng mặt)

Đều cư trú: Thôn H, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 20 giờ 00 phút ngày 20/6/2023, R đi bộ từ nhà ra đường rồi đi nhờ xe của người đi đường không quen biết đến khu vực bến đò Phú Dâu thuộc địa phận xã T, huyện H, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây R gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói Heroin được gói bằng giấy tráng kim màu trắng với giá 200.000 đồng. Sau khi nhận gói ma túy, R cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi R đi đến khu vực cổng chợ H thuộc thôn L, xã T, huyện H thì bị Công an huyện Tiền Hải phát hiện, bắt quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Quang R, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải không phát hiện, thu giữ gì thêm.

Tại Bản kết luận giám định số 972/KL-KTHS ngày 24/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có khối lượng 0,1616 gam (không phẩy một nghìn sáu trăm mười sáu gam). Heroine STT: 09, Danh mục IA, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022” Tại bản cáo trạng số 87/CT-VKSTH ngày 05/9/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Trần Quang R về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Quang R khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải đã truy tố đối với bị cáo.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản cáo trạng số 87 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quang R từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù đến 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/6/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,1202 gam Heroine được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 972/KL- KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên về bản luận tội.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo và người làm chứng không khiếu nại hay có ý kiến gì. Nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Quang R khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo vào tối ngày 20/62023, mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình lập ngày 20/6/2023;

- Biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình lập cùng ngày 20/6/2023;

- Bản kết luận giám định số 972/KL-KTHS ngày 24/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình;

- Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng là ông Trần Văn Văng và anh Bùi Văn L.

Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 20/6/2023, tại khu vực cổng chợ Đông Hải thuộc địa phận thôn L, xã T, huyện H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải phát hiện, bắt quả tang Trần Quang R đang tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại Heroin có khối lượng 0,1616 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo Trần Quang R đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tội phạm thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ……………………………………………………………………………

c) Heroine, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

....................................................................................................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Trần Quang R là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự là “Tái phạm”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt:

[5.1]. Về hình phạt chính: Xét thấy, Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, làm suy thoái nòi giống con người. Do đó, hành vi của bị cáo cần thiết phải xử phạt bằng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để giảm nhẹ một phần mức hình phạt tù cho bị cáo thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[5.1]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn, bản thân là đối tượng nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo sau khi hoàn giám định còn lại là 0,1202 gam Heroine là loại nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa. Bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bến đò Phú Dâu ở xã T, huyện H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiền Hải đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được danh tính người bán ma túy cho R nên không có căn cứ để xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo Trần Quang R phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Quang R phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Quang R 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/6/2023.

3/ Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của Bị cáo còn lại sau khi hoàn giám định là 0,1202 gam Heroine được niêm phong trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 972/KL- KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Vật chứng của vụ án đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/9/2023 giữa Công an huyện Tiền Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải).

4/ Về án phí: Bị cáo Trần Quang R phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/9/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

Số hiệu:89/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về