Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HSST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM. THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 89/2022/HSST NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022, theo quyết định đưa ra xét xử số 64/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 với bị cáo:

Trần Văn C, sinh năm 1996; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Thôn H, xã Q, huyện L, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Họ tên bố: Trần T (tên gọi khác: Trần Văn T); Họ tên mẹ: Đặng Thị T1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 04/01/2022. Hiện đang bị tạm giam Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 10 phút ngày 04/01/2022, Công an xã L phối hợp cùng công an xã N thuộc Công an huyện G làm nhiệm vụ tuần tra tại địa bàn Xã N, huyện G, Hà Nội. Khi đến khu vực thôn 4, xã N, huyện G, tổ công tác kiểm tra phát hiện Trần Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu xám đã qua sử dụng, có lắp sim số 0969402597;

- 01 điện thoại nhãn hiệu iphone 6 màu vàng, đã qua sử dụng, lắp sim số 0366231569;

-01 xe máy nhãn hiệu SYM Angel X màu xanh, đã qua sử dụng, xe không có biển kiểm soát, có số khung B10AD4D012193, số máy VMVX1CD012193 Tại Kết luận giám định số 311/KLGĐ-PC09 ngày 11/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma túy loại Heroine, khối lượng 0,220 gam.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Trần Văn C khai nhận: Bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 11h30 ngày 04/01/2022, C đi xe máy không biển số từ Xã N, huyện G sang khu vực nghĩa trang Đ, Bắc Ninh với mục đích mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực nghĩa trang Đ, , Bắc Ninh, C gặp và mua của một người phụ nữ (không rõ nhân thân) 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Công cất gói ma túy vào túi áo khoác bên trái của C đang mặc và đi xe về xã N, huyện G Hà Nội để tìm nơi sử dụng. Khi C đi đến khu vực thôn 4, xã N, huyện G Hà Nội thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng đã thu giữ, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo Trần Văn C do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Angel có số khung XB10AD4D012193, số máy VMVX1CD012193 thu giữ của bị cáo Trần Văn C có BKS: 36K4- 8391. Qua xác minh là của anh Nguyễn Văn C1, sinh 1994, HKTT: thôn 5, Xã N, huyện G, Hà Nội. Ngày 04/01/2022, bị can Trần Văn C sử dụng xe máy đi mua ma túy thì anh C1 không biết. Do vậy, ngày 22/3/2022, cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh Nguyễn Văn C1.

Chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu xám và chiếc điện thoại nhãn hiệu iphone 6 màu vàng, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Trần Văn C không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại Bản cáo trạng số 65/CT-VKSGL ngày 30 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Văn C khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy như bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố tại phiên tòa hôm nay và xác nhận hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ và hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo với nội dung Cáo trạng truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt Trần Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cho tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng 0,200gam(đã trừ trích mẫu 0,020 gam) thu giữ của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng và 01 điện thoại Nokia 1280 màu xám.

Trong phần Tranh luận bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện G, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Hồi 12 giờ 10 phút ngày 04/01/2022 tại thôn 4, xã N, huyện G, Hà Nội, bị cáo Trần Văn C đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 0,220gam, mục đích để sử dụng, thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng. Do đó hành vi của bị cáo Trần Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma tuý là chất độc dược huỷ hoại sức khoẻ con người và gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự công cộng.

Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015- sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, làm nghề tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với số lượng ma túy loại Heroine đã thu giữ của bị cáo Trần Văn C cần cho tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số Imei 355406070219290, lắp sim số 0366231569, đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại, số seri 353419041491411, bên trong có lắp sim số 0969402597, đã qua sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên HĐXX căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 mục I Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 14(Mười bốn) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 04/01/2022.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01(Một) phong bì niêm phong có chữ ký của Giám định viên, cán bộ niêm phong Nguyễn Văn S, của Trần Văn C. Bên trong phong bì là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,200gam(đã trừ trích mẫu 0,020 gam).

- Trả cho bị cáo Trần Văn C 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số Imei 355406070219290, lắp sim số 0366231569, đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại, số seri 353419041491411, bên trong có lắp sim số 0969402597, đã qua sử dụng.

(Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội ngày 06 tháng 6 năm 2021).

4. Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HSST

Số hiệu:89/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về