Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 87/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 87/2023/HS-ST NGÀY 03/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố N, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 74/2023/HSST ngày 20 tháng 2 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyn T; sinh năm 1988; giới tính: Nam Trú tại: 284 khóm Q, phường Phước Tân, Thành phố N, tỉnh K.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn H, bà và Đỗ Thị L

* Tiền án, Tiền sự: Không

* Nhân thân: Bản án số 97/2015/HSST ngày 15/5/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố N sử phạt 9 tháng 3 ngày tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong bản án năm 2017.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T Trú tại: Thôn T, xã Vĩnh Thái, Thành phố N. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 ngày 3/11/2022, tại nhà không số thuộc thôn Vĩnh Xuân, xã Vĩnh Thái, Thành phố N, Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an Thành phố N phối hợp với Công an xã Vĩnh Thái bắt quả tang Nguyễn T có hành vi tàng trữ 0,5915 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân Tại bản cáo trạng số 70/CT-VKSNT ngày 16/2/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù; xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng. Xét thấy việc vắng mặt của đương sự không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là có tính khách quan và hợp pháp.

[3]. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, với bản Kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Việc bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,5915 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng, không nhằm bán lại kiếm lời đã đủ yếu tố cấu T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố N truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của nhà nước, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét bị cáo T khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

[5]. Về vật chứng: Xét vật chứng là 01 đoạn ống thủy tinh dài khoảng 15cm, một đầu uốn cong hình bầu tròn là vật bị cáo dùng để sử dụng ma túy và không có giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống thủy tinh dài khoảng 15cm, một đầu uốn cong hình bầu tròn Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố N và Chi cục thi hành án dân sự Thành phố N.

* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 87/2023/HS-ST

Số hiệu:87/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về