Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 86/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 86/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu P, sinh năm 1992; Nơi ĐKHKTT: thôn L, thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu L1 và bà Nguyễn Thị T1; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/06/2021 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 9 giờ 20 phút ngày 25/6/2021, tại cây xăng S thuộc thôn Đ, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, trong lúc làm nhiệm vụ tuần tra, tổ công tác của Công an xã S đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Hữu P, sinh năm 1992, trú tại thôn L, thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đang thực hiện hành vi tàng trữ phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

1 + Tại túi quần phía trước bên trái P đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 túi nilon màu trắng đựng 08 viên nén màu hồng, dạng hình tròn và 04 mảnh màu hồng không rõ hình dạng (nghi là ma túy);

+Tại túi quần phía trước bên phải P đang mặc có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy màu bạc, 02 ống hút nhựa màu xanh lá cây và tím, 01 ống hút nhựa màu cam được xiên qua nắp chai nhựa màu vàng; 01 điện thoại Mastel màu đỏ đen, lắp sim số 0365.X.650.

Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật. Sau đó, đưa P cùng vật chứng về bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 25/6/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ của P đựng trong phong bì niêm phong.

Tại Kết luận giám định số 469/KLGDMT-PC09 ngày 28/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: 08 (tám) viên nén hình tròn màu hồng và 04 mảnh màu hồng không rõ hình dạng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng là 0,8410 gam, Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính Phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất. (BL 16) Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu P đã khai nhận như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 25/6/2021, P được một nam thanh niên tên là H, sinh năm 1993 (là bạn bè quen biết xã hội của P, không biết họ tên đệm, địa chỉ cụ thể của H ở đâu) điều khiển xe mô tô Dream, không có biển kiểm soát chở P đi đến cổng Khu công nghiệp T II thuộc thị trấn H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Khi đến nơi, H bảo P xuống xe đứng chờ rồi H điều khiển xe mô tô đi đâu P không biết. Khoảng một tiếng sau, H quay lại rủ P đi đến cửa hàng sửa chữa điện thoại N1 của anh N2, sinh năm 1975 ở thôn A, xã L1, huyện G, tỉnh Bắc Ninh để lấy điện thoại vì trước đó H có vay tiền của anh N và để lại điện thoại cho anh N để làm tin. P đồng ý. Khi đi đến đoạn đường gần lối rẽ vào bến đò Ngăm thuộc xã L3, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, H đưa cho P 600.000 đồng rồi bảo P điều khiển xe mô tô đến cửa hàng điện thoại N1 lấy hộ H điện thoại và trả tiền cho 2 anh N, còn H đứng đợi ở đó. Do vợ anh N cầm chìa khóa tủ đi vắng nên P không lấy được điện thoại cho H nên quay lại chỗ H đứng chờ. Tại đây, H chỉ tay về phía trụ đê cạnh lối rẽ đi vào bến đò L3, đồng thời bảo P “Bao thuốc ở kia bên trong có hàng đấy”. Do bản thân P đã sử dụng ma túy từ lâu nên P hiểu “có hàng” tức là có ma túy. Vì vậy, P đã đi đến chỗ trụ đê nhặt 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng ở dưới đất rồi cất vào túi áo ngực của P. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở P đi trên đường đê Đại Hà hướng về thị trấn H, huyện T. Khi đi được một đoạn, H đưa cho P 01 bao thuốc lá Thăng Long, P thấy bên trong có 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc và 02 ống hút bằng nhựa màu xanh lá cây và tím, 01 ống hút bằng nhựa màu cam được xiên qua nắp chai nhựa màu vàng. P hiểu đó là những dụng cụ dùng để sử dụng chất ma túy nên đã cầm lấy rồi cất vào túi quần phía trước bên phải P đang mặc. H chở P đến cây xăng S trên đường liên thôn Đ, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Ninh thì H bảo P xuống xe đứng đợi H. Còn H điều khiển xe đi đâu thì P không biết. Đến khoảng 09 giờ 20 phút cùng ngày, trong lúc P đang đợi H thì bị tổ công tác của Công an xã S trong kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Từ những tình tiết nêu trên, Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 29/09/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Hữu P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của bản thân như đã nêu ở trên. P khai vào khoảng 9 giờ 20 phút ngày 25/6/2021, tại cây xăng S thuộc thôn Đ, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo bị Công an kiểm tra và thu giữ tại túi quần phía trước bên trái 01 túi nilon màu trắng đựng 08 viên nén màu hồng, dạng hình tròn và 04 mảnh màu hồng không rõ hình dạng đựng là ma túy đựng trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; thu giữ tại túi quần phía trước bên phải 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy màu bạc, 02 ống hút nhựa màu xanh lá cây và tím, 01 ống hút nhựa màu cam được xiên qua nắp chai nhựa màu vàng và 01 điện thoại Mastel màu đỏ đen, lắp sim số 0365.X.650. Nguồn gốc số ma túy là của một người quen biết ngoài xã hội tên H rủ đi lấy ở trên đê gần bến đò L3, huyện G. Số dụng cụ sử dụng ma túy do H đưa, còn chiếc điện thoại di động là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo và gia đình không có ai có công với đất nước hoặc có thành tích được tặng thưởng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra những chứng cứ, lý lẽ, kết luận Nguyễn Hữu P phạm tội 3 “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Hữu P từ 16 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/06/2021.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy màu bạc, 02 ống hút nhựa màu xanh lá cây và tím, 01 ống hút nhựa màu cam được xiên qua nắp chai nhựa màu vàng;

+ Trả lại bị cáo 01 điện thoại Mastel màu đỏ đen, lắp sim số 0365.X.650.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin HĐXX được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và vật chứng thu giữ. Căn cứ vào kết luận giám định và các tài liệu trong hồ sơ có đủ cơ sở kết luận: Hồi 9 giờ 20 phút ngày 25/6/2021, tại cây xăng S thuộc đường liên thôn Đ, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Hữu P đã thực hiện hành vi tàng trữ phép 0,8410 gam, là ma túy, loại ma túy Methamphetamine và bị bắt quả tang. Nguyễn Hữu P có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi đã xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của người sử dụng mà còn ảnh hưởng đến gia đình và xã hội. Người sử dụng ma túy có lối sống buông thả, thoái hóa nhân cách, làm suy kiệt giống nòi, còn dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hiểu rõ được tác hại và sự nguy hiểm về hành vi của bản thân nhưng vẫn cố ý thực hiện do vậy cần xử lý kịp thời và nghiêm khắc để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Nguyễn Hữu P chưa có tiền án, tiền sự, là đối tượng sử dụng ma túy. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có tham gia quân ngũ nhưng không có thành tích được khen thưởng nên không được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục Nguyễn Hữu P trở thành công dân có ích. Mức hình phạt tù mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng với bị cáo là phù hợp. Bị cáo tàng trữ trái phép ma túy không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Liên quan đến vụ án còn có người thanh niên tên H. Theo lời khai của P thì H là người bảo P lấy 01 bao thuốc lá Thăng Long có ma túy ở dưới đất gần trụ đê đoạn lối rẽ vào bến đò L3. Quá trình điều tra xác định: Bản thân P không biết rõ họ tên đệm, địa chỉ cụ thể của H ở đâu. Bản thân anh N2 (chủ cửa hàng) xác nhận có việc P đến cửa hàng của anh để lấy điện thoại cho H như P đã trình bày ở trên, anh N không quen biết H. Trước đây, H có đến cửa hàng của anh N và tự giới thiệu tên là H hỏi vay 1.000.000 đồng của anh N và tự nguyện để lại 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung cho anh N cầm để làm tin. Khoảng mấy ngày sau, H đã đến cửa hàng trả cho anh N 1.000.000 đồng và lấy lại điện thoại nêu trên. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành rà soát camera xác định không có camera phía ngoài đường xung quanh khu vực cây xăng S thuộc địa phận thôn Đ, xã S và tại cửa hàng sửa chữa điện thoại N1 thuộc thôn A, xã 5 L1, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Tiến hành kiểm tra điện thoại thu giữ của P nhưng không phát hiện có tin nhắn, cuộc gọi nào liên quan đến nam thanh niên tên H. Ngày 01/7/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra thông báo truy tìm đối tượng đối với H nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tách phần tài liệu liên quan đến H ra. Khi nào làm rõ được sẽ xem xét xử lý sau.

Về vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành, các vật chứng khác như vỏ bao thuốc, ống hút, chai nhựa, bật lửa, giấy bạc không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại thu giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 329; 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, xử phạt Nguyễn Hữu P 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 25/06/2021.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo việc thi hành án.

2. Vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ mẫu vật còn lại sau giám định đựng trong phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, 02 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy màu bạc, 02 ống hút nhựa màu xanh lá cây và tím, 01 ống hút nhựa màu cam được xiên qua nắp chai nhựa màu vàng;

+ Trả lại bị cáo 01 điện thoại Mastel màu đỏ đen, lắp sim số 0365.X.650 nhưng tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.

3. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 86/2021/HS-ST

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về