Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 83/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN A - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 83/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 09 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 168/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Võ Minh T, Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 18/01/1997; Tại: TP. Hồ Chí Minh; HKTT: tổ X, ấp Y, xã Phước K, huyện H, TP. Hồ Chí Minh; Nơi ở hiện tại: tổ X, ấp Y, xã Phước K, huyện H, TP. Hồ Chí Minh, Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Cha: Võ Văn D; Sinh năm: 1964 (chết); Mẹ: Nguyễn Thị Mai T; Sinh năm: 1974; Anh: Võ Minh Th; Sinh năm: 1994; Vợ, con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Không; Nhân thân: Từ nhỏ sống với gia đình tại tổ X, ấp Y, xã Phước K, huyện H, TP. Hồ Chí Minh. Lớn lên phụ giúp gia đình; Biện pháp ngăn chặn: Bị cáo Võ Minh T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/5/2023 đến nay.(Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Cẩm T Địa chỉ: Ấp X, xã Phước K, huyện X, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 45 phút ngày 23/05/2023, Võ Minh T điều khiển xe gắn máy biển số 59Y1 – X đi đến khu vực hẻm Tôn Đ, Phường X, Quận A để mua ma túy, khi đi đến đầu hẻm T dừng xe rồi đi bộ đến trước nhà Tôn Đ, Phường X, Quận A thì thấy nhà khóa cửa. T đứng ở ngoài hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. Lúc này, ở trong nhà có giọng của 01 người phụ nữ yêu cầu T nhét tiền qua khe cửa nhà, T nhét tiền vào khe cửa theo yêu cầu. Khoảng 07 phút sau thì có một người phụ nữ nhét qua khe cửa 02 gói nylon chứa ma túy cho T, T cất ma túy vào trong túi áo bên trái trước ngực đang mặc rồi đi bộ ra đầu hẻm để lấy xe đi về. Khi đi đến trước số XX Tôn Đ, Phường X, Quận Lthì T bị Tổ tuần tra Công an Phường X Quận A kiểm tra phát hiện, bắt quả tang thu giữ 02 gói ma túy nói trên đưa về Công an Phường X, Quận A lập hồ sơ xử lý.

Tại Cơ quan điều tra Công an Quận A, Võ Minh T khai nhận đã đi đến nhà mua ma túy của người phụ nữ được 02 lần và đều được người phụ nữ yêu cầu thực hiện theo phương thức thủ đoạn như trên nên T không gặp mặt trực tiếp người phụ nữ và cũng không thể nhận dạng được người này.

Tại kết luận giám định số 5524/KL-KTHS ngày 01/06/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM kết luận: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5611 gam.

Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận A không xác định được lai lịch, nên không có cơ sở xử lý.

* Vật chứng:

- 01 (một) niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Minh T, Nguyễn Quang T (Điều tra viên) và hình dấu Công an Phường X Quận A.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi đã qua sử dụng, số imei 1: 865665060528043, số imei 2: 865665060528050 là tài sản cá nhân của T, không có liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy.

- 01 xe gắn máy biển số 59Y1 – X đã qua sử dụng, số khung: 3610EY503507, số máy: JA36E0023576. Qua xác minh người đứng tên đăng ký xe tên là Nguyễn Văn  – nơi thường trú: YY Phan Tây H, Phường H, quận P. Năm 2009, ông Nguyễn Văn  đã bán nhà đi đâu không rõ. Bị cáo Võ Minh T mượn của dì ruột tên Nguyễn Thị Cẩm T để làm phương tiện đi làm phụ giúp gia đình. Qua làm việc, bà T xác định đã mua lại xe trên vào tháng 01/2023 với giá khoảng 10.000.000đ nhưng chưa làm thủ tục sang tên, sau đó cho cháu là Võ Minh T mượn để đi làm phụ giúp gia đình và không biết việc T đã dùng xe trên để đi mua ma túy sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận A đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu của chiếc xe nói trên nhưng chưa có ai đến liên hệ làm việc.

Tại Bản Cáo trạng số 94/CT-VKS ngày 07/09/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận A truy tố bị cáo Võ Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Minh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo Võ Minh T thừa nhận hành vi phạm tôi của mình phù hợp với nội dung vụ án đã được tóm tắt như trên; bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận và đã thể hiện sự ăn năn hối cải, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Minh T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Căn cứ Kết luận giám định số 5524/KL-KTHS ngày 01/06/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, kết hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, xét đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 23/05/2023, tại trước nhà số 148/19 Tôn Đản, Phường X, Quận A, Võ Minh T bị phát hiện bắt quả tang cất giấu 02 ống nhựa chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, khối lượng 0,5611 gam nhằm mục đích sử dụng nên phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 như Viện kiểm sát nhân dân Quận A truy tố đối với bị cáo Võ Minh T là đúng người, đúng tội.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Để có tác dụng giáo dục và răn đe, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm cần có mức án tương đối với bị cáo.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[5]. Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6]. Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T do T không gặp mặt trực tiếp người phụ nữ và cũng không thể nhận dạng được người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận A không xác định được lai lịch không có cơ sở xử lý.

[7]. Về xử lý vật chứng vụ án:

- 01 (một) niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Minh T, Nguyễn Quang T (Điều tra viên) và hình dấu Công an Phường X, Quận A Bên trong là 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5611 gam là tang vật ma túy còn lại sau giám định. Đây là vật cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi đã qua sử dụng, số imei 1: 865665060528043, số imei 2: 865665060528050 là tài sản cá nhân của T, không có liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy biển số 59Y1 – X đã qua sử dụng, số khung 3610EY503507, số máy: JA36E0023576. Qua xác minh người đứng tên đăng ký xe tên là Nguyễn Văn  – nơi thường trú: YY Phan Tây H, Phường H, quận P. Năm 2009, ông Nguyễn Văn  đã bán nhà đi đâu không rõ. Bị can Võ Minh T mượn của dì ruột tên Nguyễn Thị Cẩm T để làm phương tiện đi làm phụ giúp gia đình. Qua làm việc, bà T xác định đã mua lại xe trên vào tháng 01/2023 với giá khoảng 10.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên, sau đó cho cháu là Võ Minh T mượn để đi làm phụ giúp gia đình và không biết việc T đã dùng xe trên để đi mua ma túy sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận A đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu của chiếc xe nói trên nhưng chưa có ai đến liên hệ làm việc. Xét, tiếp tục đăng tin tìm chủ sở hữu, nếu tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại, không tìm được thì tịch thu sung quỹ Nhà nước [8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Võ Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2023.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Minh T, Nguyễn Quang T (Điều tra viên) và hình dấu Công an Phường X, Quận A Bên trong là 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5611 gam ma túy còn lại sau giám định.

- Trả lại:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi đã qua sử dụng, số imei 1: 865665060528043, số imei 2: 865665060528050 cho bị cáo Võ Minh T.

- Tiếp tục đăng tin tìm chủ sở hữu trong thời gian hai tháng đối với xe gắn máy biển số 59Y1 – X đã qua sử dụng, số khung: 3610EY503507, số máy: JA36E0023576 nêu trên, nếu tìm được chủ sở hữu hợp pháp thì trả lại, không tìm được thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 108/2023 ngày 21 tháng 9 năm 2023 Giữa Công an Quận A và chi cục thi hành án dân sự Quận A).

3. Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 83/2023/HS-ST

Số hiệu:83/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về