TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 83/2022/HS-PT NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 03 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 59/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Lê Bảo T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2022/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Bị cáo có kháng cáo: Lê Bảo T, sinh năm 1986 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú:
391D3, ấp A, xã M, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Anh L và bà Bùi Thị D; bị cáo có chồng tên Đỗ Văn M và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2007 và nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2022 đến ngày 20/01/2022 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt;
(Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Đỗ Văn M nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị phúc thẩm).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 14/01/2022, Đỗ Văn M điều khiển xe môtô 71B4- 684.17 chở Lê Bảo T cùng đi Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy về cả hai cùng sử dụng. Trên đường đi M điện thoại một người phụ nữ không rõ lai lịch hỏi mua ma túy loại Heroine với giá 3.000.000 đồng và hẹn giao tại khu vực gần cầu vượt Nguyễn Văn Linh thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi M và T đến nơi, M đưa người phụ nữ 3.000.000 đồng và nhận một túi giấy màu xám bên trong có 01 túi nylon chứa chất ma túy loại Heroine. Sau đó, Minh đưa gói ma túy cho T cất giữ. Trên đường về cả hai vào nhà nghỉ ven đường lấy một ít ma túy ra sử dụng rồi T cất túi ma túy còn lại vào trong búi tóc của T, cả hai tiếp tục đi về Bến Tre. Đến lúc 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi Minh và T đi đến khu vực Đại lộ Nguyễn Thị Định thuộc ấp Phú Nhơn, Thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, thì bị Tổ tuần tra của Công an tỉnh Bến Tre và Công an huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nylon hàn kín 03 phía, phía còn lại có rãnh khép vạch màu đỏ bên trong có 01 túi nylon hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng (được niêm phong ký hiệu M); 01 điện thoại di động hiệu Bird, vỏ màu xanh, Imei: 868323012353329, Imei: 868323012353337, số thuê bao 0986704754; 01 bật lửa màu đỏ; 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng; 01 mảnh giấy màu xám; 01 xe mô tô biển số 71B4-684.17, nhãn hiệu Yamaha, loại xe hai bánh, số loại Jupiter, màu sơn đen trắng vàng, số khung RLCJ31C30Y019074, số máy 31C3-019081.
Tại Kết luận giám định số 09/2022/GĐMT ngày 17/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận chất màu trắng được niêm phong trong phong bì M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 3,5495 gam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đã tuyên bố bị cáo Lê Bảo T phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Bảo T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đỗ Văn M, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 03/6/2022, bị cáo Lê Bảo T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự;
xử phạt bị cáo Lê Bảo T 01 năm 03 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo nói lời sau cùng: yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo được về sớm chăm sóc hai con nhỏ còn đang đi học.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được xem là hợp lệ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đã thực hiện đều hợp pháp.
Về nội dung:
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm đã xác định rằng: Vào lúc 12 giờ 30 phút ngày 14/01/2022, tại ấp Phú Nhơn, thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành phối hợp Cơ quan CSĐT-Công an tỉnh Bến Tre bắt quả tang Đỗ Văn M và Lê Bảo T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 3,5495 gam. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết bị cáo phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án đối với bị cáo là đúng quy định pháp luật, không oan sai.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo yêu cầu được giảm nhẹ hình phạt, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo T 01 năm 03 tháng tù là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Mặt khác, tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, tinh thần của con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội là nguyên nhân chính dẫn đến các tệ nạn xã hội khác. Để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với tệ nạn ma túy cần phải xử lý nghiêm các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy nên cần cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trước thực trạng tội phạm về ma túy đang có chiều hướng gia tăng. Việc cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội trong một khoảng thời gian nhất định là cần thiết, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân và cai nghiện ma túy. Vì vậy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[4] Đối với quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đã cân nhắc tính chất, mức độ của hành vi, hậu quả và nhân thân nên đã đề nghị xử phạt bị cáo Lê Bảo T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ nên được chấp nhận.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm, theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị cáo phải chịu do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Bảo T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng được trừ 07 (bảy) ngày bị tạm giữ từ ngày 14/01/2022 đến ngày 20/01/2022. Thời hạn tù còn lại bị cáo phải chấp hành là 01 (một) năm 02 (hai) tháng 23 (hai mươi ba) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Lê Bảo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 83/2022/HS-PT
Số hiệu: | 83/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về