TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2023/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Lương Văn Đ, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1994 tại thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: thôn H, xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Quang V và con bà Hà Thị H; bị cáo có vợ và có 03 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 21/6/2023 đến ngày 27/6/2023 chuyển tạm giam.
Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Quyết định tạm giam số 44/2023/HSST - QĐTG ngày 02/10/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).
- Người làm chứng: ông Lê Thanh B, sinh năm 1957; (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lương Văn Đ là người sử dụng trái phép chất ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 13 giờ ngày 21/6/2023 Đ đi từ nhà đến khu vực đường vào nhà thờ T thuộc tổ dân phố 1, phường T, thành phố T. Tại đây Đ gặp một người đàn ông không quen biết giống người nghiện nên đến hỏi mua 01 gói ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng thì người đàn ông đồng ý. Đ đưa tiền, người đàn ông đưa cho Đ 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, tại vị trí giữa vỏ túi nilon bọc ngoài bao thuốc và vỏ bao thuốc có 01 túi nilon màu trắng, viền đỏ ở một đầu, bên trong là 01 túi nilon màu trắng có viền xanh ở một đầu bên trong là chất tinh thể màu trắng. Khoảng 14 giờ cùng ngày Đ cầm bao thuốc lá Thăng Long trong có túi nilon đựng ma túy trên tay phải và đi ra phía đường quốc lộ 1a để đi về nhà thì gặp tổ công tác Công an thành phố T đang tuần tra đảm bảo an ninh trật tự phát hiện Đ có biểu hiện nghi vấn nên đến yêu cầu kiểm tra hành chính. Tại chỗ Đ khai tên, tuổi, địa chỉ, đồng thời giao nộp 01 bao thuốc lá Thăng Long và khai nhận ở bao thuốc lá có 01 túi ma túy vừa mua của một người đàn ông không quen biết để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác kiểm tra bao thuốc do Đ giao nộp phát hiện tại vị trí giữa vỏ túi nilon bọc ngoài bao thuốc và vỏ bao thuốc có 01 túi nilon màu trắng, có viền đỏ ở một đầu, bên trong là túi nilon màu trắng có viền xanh một đầu, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ và niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Sau đó đưa Đ về trụ sở Công an thành phố T tiến hành lập biên bản thu giữ niêm phong vật chứng và biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của Lương Văn Đ có khối lượng 0,27 gam ký hiệu M gửi đi giám định.
Tại bản Kết luận giám định số 533/KL - KTHS - MT ngày 27/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: mẫu chất dạng tinh thể màu trắng gửi giám định ký hiệu M, có khối lượng 0,2685 gam, là ma túy, loại Methemphetamine.
Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục IIC, số thứ tự 247 Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
Quá trình điều tra, bị cáo Lương Văn Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số 77/CT – VKS ngày 30 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Lương Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Lương Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .
Xử phạt bị cáo Lương Văn Đ từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 21/6/2023.
- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự - Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 533/KL - KTHS - MT; mẫu vật hoàn trả gồm M = 0,2122 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong;
+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi nilon màu trắng, có viền xanh ở một đầu, kích thước (2,5 x 2,8) cm;
+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;
+ 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng, có viền đỏ ở một đầu, kích thước (7,5 x 4) cm;
- Trả lại cho Lương Văn Đ số tiền 1.040.000 đồng Trong quá trình điều tra, ông Lê Thanh B trình bày: khoảng 14 giờ ngày 21/6/2023 ông được Cơ quan Công an mời làm chứng việc kiểm tra căn cước công dân đối với một nam thanh niên tại tổ 1, phường T, thành phố T. Người thanh niên không xuất trình được giấy tờ và khai báo tên tuổi là Lương Văn Đ, sinh năm 1994, trú tại thôn H, xã Q, thành phố T. Lực lượng Công an hỏi về bao thuốc lá Đ đang cầm trên tay phải thì Đ khai nhận đó là bao thuốc lá bên trong có túi ma túy đá Đ mang theo để sử dụng. Đ đã giao nộp bao thuốc lá cho lực lượng Công an. Kiểm tra bao thuốc lá Đ giao nộp thì thấy đó là một vỏ bao thuốc lá đã bị bóc một đầu, ở vị trí kẽ giữa vỏ túi nilon màu trắng bọc ngoài bao thuốc lá và vỏ bao thuốc có 01 túi nilon màu trắng có viền đỏ ở một đầu, bên trong có một túi nilon màu trắng có viền xanh ở một đầu bên trong túi nilon là chất tinh thể màu trắng, Đ khai nhận là ma túy đá rồi tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật. Sau đó lực lượng Công an đưa Đ và vật chứng về trụ sở Công an thành phố T tiến hành lập biên bản thu giữ niêm phong vật chứng và biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, lực lượng công an mở niêm phong cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng, kiểm tra dấu vết trên thân thể của Lương Văn Đ.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số 533/KL - KTHS - MT ngày 27/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: khoảng 14 giờ 00 phút ngày 21/6/2023, tại đường quốc lộ 1A, thuộc tổ dân phố 1, phường T, thành phố T, Lương Văn Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,2685 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân, bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện, bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a) ...;
c) Heroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.
[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3] Về nhân thân: bị cáo Lương Văn Đ có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
[4] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lương Văn Đ.
[6] Về nguồn gốc số ma túy loại Methamphetamine thu giữ của Lương Văn Đ, Đ khai ngày 21/6/2023 mua được 01 túi ma túy Methamphetamine với giá 300.000 đồng của một người đàn ông không quen biết. Do Đ không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy cho Đ nên Cơ quan điều tra Công an thành phố T không đủ căn cứ xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật.
[7] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Đối với 01 phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 533/KL - KTHS - MT; mẫu vật hoàn trả gồm M = 0,2122 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì giấy dán kín mép niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi nilon màu trắng, có viền xanh ở một đầu, kích thước (2,5 x 2,8) cm; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng, có viền đỏ ở một đầu, kích thước (7,5 x 4) cm cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus bên trong lắp 01 sim số thuê bao 0962461287 đã thu giữ của Lương Văn Đ, quá trình điều tra xác định là tài sản của Đ, không sử dụng vào mục đích phạm tội. Do đó, cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cùng sim điện thoại cho Đ, Đ đã ủy quyền cho chị Mai Thị M là vợ của Đ nhận lại là đúng theo quy định của pháp luật.
Đối với số tiền 1.040.000 đồng thu giữ của bị cáo Lương Văn Đ, qúa trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, do đó cần trả lại cho bị cáo Lương Văn Đ là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố:
Bị cáo Lương Văn Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
|
- Xử phạt bị cáo Lương Văn Đ 17 (mười bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 21 tháng 6 năm 2023
2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng quy định pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi số: 533/KL – KTHS - MT; vụ Lương Văn Đ, sinh năm 1994, xảy ra ngày 21/6/2023 tại phường T, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; mẫu vật hoàn trả gồm M = 0,2122 gam là ma túy, loại Methamphetamine; toàn bộ vỏ bao gói niêm phong;
+ 01 (một) phong bì giấy dán kín mép niêm phong theo đúng quy định pháp luật còn nguyên vẹn, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ túi nilon màu trắng, có viền xanh ở một đầu, kích thước (2,5 x 2,8) cm;
+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng;
+ 01 (một) vỏ túi nilon màu trắng, có viền đỏ ở một đầu, kích thước (7,5 x 4) cm;
- Trả lại cho Lương Văn Đ số tiền 1.040.000 đồng Những vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo giấy ủy nhiệm chi ngày 11 tháng 10 năm 2023 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 16 tháng 10 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
3/Về án phí:
Buộc bị cáo Lương Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2023/HS-ST
Số hiệu: | 80/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về