Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 78/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2022/TLST-HS ngày 05/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXST-HS ngày 05/4/2022 đối với bị cáo:

Quàng Văn D, tên gọi khác: Không; sinh năm 1991 tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn Đ, sinh năm 1970 và bà: Quàng Thị D1, sinh năm 1973; bị cáo có vợ là Lường Hồng L, sinh năm 1992 và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; không tiền án, tiền sự; nhân thân: Tại Quyết định 103/QĐ-UBND ngày 01/6/2018 bị Chủ tịch UBND xã Chiềng Pấc ra quyết định giáo dục tại xã, thời gian 03 tháng; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2022 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Quàng Thị D1, sinh năm 1973; nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện T, tỉnh Sơn La, có mặt.

Người phiên dịch: Bà Quàng Thị D2, sinh năm 1993; nơi cư trú: Tiểu khu H, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 06/01/2022, Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực thôn 3, xã T, huyện T, phát hiện Quàng Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm: Một gói nilon màu hồng bên trong có chứa một ít chất bột màu trắng hồng trộn lẫn, nghi là Heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn (D khai là Heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn) và 01 xe máy BKS 26AA-002.24.

Hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: Số chất bột màu trắng hồng nghi là heroine và ma túy tổng hợp trộn lẫn, có khối lượng 0,30 gam (ký hiệu D1), trích rút toàn bộ gửi giám định chất và loại ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 250/KLMT ngày 11/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là chất ma túy; loại Heroine và Methamphetamine trộn lẫn. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,30 gam, loại Heroine và Methamphetamine”.

Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự thì tổng khối lượng chất ma túy Quàng Văn D tàng trữ trái phép nhằm mục đích sử dụng là 0,30 gam, loại Heroine và Methamphetamine trộn lẫn.

Quá trình điều tra Quàng Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 06/01/2022, Quàng Văn D đi xe máy BKS 26AA-002.24 từ nhà bản L, xã C, huyện T đi lên xã T, huyện T để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến bản B, xã T, huyện T thì D gặp và mua được một người đàn ông dân tộc Thái (D không biết tên tuổi và địa chỉ cư trú) 01 gói ma túy gói bằng nilon màu hồng bên trong có chứa Heroine và hồng phiến trộn lẫn với giá 700.000đ. D cất gói ma túy vào túi áo ngực đằng trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi D đi về đến khu vực thôn 3, xã Tông Lạnh thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu phát hiện, bắt quả tang. Tổ công tác đã tạm giữ tang vật, dẫn giải Quàng Văn D về Ủy ban nhân dân xã Tông Lạnh lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 34/CT- VKS ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Quàng Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Quàng Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn D từ 16 đến 22 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe máy nhãn hiệu SUNFAT, loại xe SUPER CUB, BKS: 26AA-002.24.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn D.

Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn D thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Quàng Thị D1 có ý kiến: Chiếc xe bị cáo bị thu giữ là của bà Dem, việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy bà không biết, đây là phương tiện đi lại của gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử trả lại xe cho bà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Ngày 06/01/2022 bị cáo Quàng Văn D đã có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,30 gam Heroine và Methamphetamine trộn lẫn, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực thôn 3, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với h ành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 00 phút ngày 06/01/2022 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số: 250/KLMT ngày 11/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giữ trái phép 0,30 gam Heroine và Methamphetamine trộn lẫn của bị cáo Quàng Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe đối với bị cáo, đảm bảo biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có ông nội là Quàng Văn Hom là liệt sĩ, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Quàng Văn D khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ở khu vực bản B, xã T, huyện T, tỉnh Sơn La vào ngày 06/01/2022 với số tiền 700.000đ. Quá trình điều tra xác định D không biết họ tên và địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ mở rộng điều tra. [6] Vật chứng vụ án:

Đối với 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu SUNFAT, loại xe SUPER CUB, BKS: 26AA- 002.24. Xét đây là tài sản hợp pháp của bà Quàng Thị D1, việc bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy bà D1 không biết, bà D1có ý kiến xin lại chiếc xe, do đó cần trả chiếc xe cho bà Quàng Thị D1, căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn D.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Quàng Văn D 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 06/01/2022).

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn D – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 06/01/2022”. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023976 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, bên trong có: Một mảnh nilon màu hồng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Quàng Thị D1: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUNFAT, loại xe SUPER CUB, màu sơn đỏ trắng, BKS 26AA- 002.24, số khung 002383, số máy 002335, xe đã qua sử dụng cũ, xe không có chìa khóa.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

3. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn D.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo Quàng Văn D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2022/HS-ST

Số hiệu:78/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về