TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2023 tại Trụ sở TAND huyện Trực Ninh, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 72/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2023/QĐXXST - HS ngày 17 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:
Trần Xuân D, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1990 tại N; Nơi ĐKHKTT
- Nơi cư trú: Thôn D, xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh: Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Xuân D; con bà: Bùi Thị T; Vợ : Vũ Kiều L (đã ly hôn); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/06/2023 đến ngày 03/07/2023. Bị tạm giam từ ngày 03/07/2023 đến nay. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 27/6/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Trần Xuân D mang theo 150.000 đồng, đi bộ một mình từ nhà đến xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh N để tìm mua ma túy. Khi đến đoạn đầu Cầu Trắng thuộc xóm Bắc Đông Hạ, xã Trung Đông, D gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng một mình. Nghĩ người này có bán ma túy, D tiến lại gần hỏi: “Có ma túy không anh, bán em gói”, người đàn ông gật đầu và hỏi : Gói bao nhiêu”. D trả lời : “Một trăm năm mươi nghìn đồng”. Người này đồng ý bán, D lấy 150.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này nhận tiền rồi đưa lại cho D 01 gói giấy bạc màu vàng nhạt. D mở kiểm tra, thấy đúng loại cần mua nên gói lại và cầm trên tay rồi đi về tìm nơi sử dụng. Khi D đi bộ về đến đoạn đường trục xã hướng Cầu Trắng - chợ Đình, xã Trung Đông, huyện Trực Ninh, tỉnh N thì bị lực lượng công an xã Trung Đông phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy bạc màu vàng nhạt, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, niêm phong gói kí hiệu là M.
Bản kết luận giám định số 1016/KL-KTHS ngày 29/6/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu vàng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu M: 0,117 gam.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.
Cáo trạng số 70/CT - VKS - TN ngày 06 tháng 10 năm 2023 của VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh N đã truy tố bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.
Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội D và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử :
Tuyên bố bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Trần Xuân D từ 12 - 18 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo trong quá trình điều tra còn lại sau giám định.
Lời nói sau cùng bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh N: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án đều hợp pháp.
[2] Về quan điểm của Đại diện VKS, bị cáo tại phần thủ tục tranh luận: HĐXX thấy việc tranh luận, đối đáp đúng trình tự quy định của pháp luật, các bên đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi tranh tụng và đều giữ nguyên quan điểm. Quan điểm của các bên đã được HĐXX cân nhắc, đánh giá khi nghị án. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ trực tiếp xâm hại tới trật tự quản lý độc quyền của Nhà nước về ma tuý - là quan hệ xã hội thuộc khách thể đã được BLHS ghi nhận và bảo vệ. Bị cáo thừa nhận vật chứng mà Cơ quan CSĐT đã thu giữ là ma túy; Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra.
Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản ghi lời khai người làm chứng; Kết luận giám định.
Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận:
Hành vi cất giấu trái phép 0,117g Heroine ngày 27/06/2023 của bị cáo Trần Xuân D đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Tội D và hình phạt được quy định tại Điều 249 BLHS.
Ma tuý là một trong nguyên nhân phát sinh tình hình tội phạm, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ, kinh tế của bản thân, của gia đình bị cáo và của toàn xã hội, là tệ nạn đã và đang bị toàn xã hội lên án mạnh mẽ. Chính vì thế Nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật đã nghiêm cấm hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.
Vì vậy, để đảm bảo trật tự pháp luật, phòng ngừa chung tình hình tội phạm, việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là điều cần thiết.
Việc VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh N truy tố bị cáo Trần Xuân D về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản Cáo trạng số 70/CT - VKS - TN ngày 06 tháng 10 năm 2023, là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo đã gây ra, HĐXX thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tác dụng giáo dục phòng ngừa chung tình hình tội phạm.
[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo Điều 52 BLHS.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc tới tình tiết: Bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải - Để giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để vừa thể hiện tính nhân đạo, công bằng của pháp luật, vừa đảm bảo tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, HĐXX thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án là những vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nên HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Trần Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt Trần Xuân D 12 ( Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 06 năm 2023.
2. Vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy đã thu giữ của các bị cáo trong quá trình điều tra còn lại sau giám định đựng trong 01 bì thư số 1016/KL - KTHS của Phòng KTHS - Công an tỉnh N.
(Vật chứng trên đây có đặc điểm như biên bản bàn giao giữa CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh, tỉnh N với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh N ngày 17 tháng 10 năm 2023).
3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Xuân D phải nộp 200.000 đồng.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Xuân D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST
Số hiệu: | 73/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về