Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 72/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:78/2021/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2021/QĐXXST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh năm 1994, tại tỉnh Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức H2, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 (đều còn sống); bị cáo chưa có vợ con; có 03 anh, chị, em ruột lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/7/2021 sau đó chuyển sang tạm giam từ ngày 05/8/2021 cho đến nay - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1972; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương - Có mặt;

2. Bà Võ Thị N, sinh năm 1955; địa chỉ: ấp H, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai - Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Lý Quốc B – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức H đã nhiều lần sử dụng ma túy tại nhà và quen biết với người thanh niên qua mạng facebook có tên tài khoản là “NP”, sinh sống tại huyện V, tỉnh Đồng Nai (không rõ nhân thân, lai lịch). Ngày 27/7/2021, H sử dụng điện thoại di động lên mạng xã hội facebook gặp NP đặt mua 300.000đ ma túy để sử dụng được NP đồng ý và hẹn nơi giao nhận ma túy tại chân cầu T thuộc địa phận huyện V, tỉnh Đồng Nai. Khoảng 15 giờ 00 cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 60K1-06xx đi từ nhà (Ấp B, xã T) đến cầu T để nhận ma túy do NP giao. Để qua được các chốt kiểm dịch covid -19 ở hai chân cầu T giáp ranh giữa tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, H ngụy trang bằng việc bỏ 200.000đ tiền mặt vào giỏ rau tươi để giao cho P. Khi đến chân cầu T (địa bàn huyện V, tỉnh Đồng Nai), P nhận giỏ rau và giao cho H 01 túi ny lon hàn kín bên trong chứa ma túy, H nhận ma túy xong treo lên xe mô tô biển số 60K1-06xx và quay về nhà tại xã T, huyện B. Khi đi đến chốt kiểm soát dịch Covid 19 tại cầu T, thuộc Ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương H bị lực lượng trực chốt kiểm tra, phát hiện H cất giấu túi nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng trên xe mô tô nghi là ma túy, H khai nhận chất tinh thể màu trắng bên trong túi ny lon hàn kín là ma túy đá H mua về để sử dụng nên Công an xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển người và tang vật đến cơ quan điều tra công an huyện B điều tra xử lý theo thẩm quyền.

* Tài liệu, đồ vật thu giữ, gồm:

- 01 túi nylon hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong); 01 xe mô tô nhãn hiệu SAVI, biển số 60K1-06xx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu vàng, bị vỡ màn hình;

Bản kết luận giám định số 497/MT-PC09 ngày 03/8/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1992 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 26/10/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã ban hành Cáo trạng số 75/CT-VKS-BTU, truy tố Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Võ Thị N và bà Nguyễn Thị T khai thống nhất: Nguồn gốc xe mô tô biển số 60K1-06xx, nhãn hiệu SAVI do bà N mua mới năm 2001 và để cho con trai là Nguyễn Tấn K đứng tên. Khi K đi lao động ở nước ngoài, không sử dụng xe mô tô trên nên bà N đã tặng cho em dâu là Nguyễn Thị T xe mô tô nói trên. Ngày 27/7/2021, bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 60K1- 06xx làm phương tiện phạm tội, bà T không biết. Bà T yêu cầu được nhận lại xe mô tô biển số 60K1-06xx để sử dụng, bà N không có yêu cầu nào khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điểm khoản như trong cáo trạng đã nêu. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong có ký hiệu 497/PC09 bên trong chứa chất ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 0,1314 gam (trọng lượng sau giám định); Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, màu vàng, bị vỡ màn hình do bị cáo sử dụng lên mạng đặt mua ma túy; trả lại cho bà Nguyễn Thị T 01 xe mô tô hiệu SAVI, biển số 60K1-06xx.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nên không tranh luận về tội danh, mức hình phạt, biện pháp tư pháp do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị đồng thời bị cáo trình bày không tự bào chữa gì cho bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để có cơ hội tự cải tạo trở thành người tốt, sớm trở về đoàn tụ gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên thực hiện đúng thẩm quyền, thủ tục điều tra, truy tố theo quy định của pháp luật tố tụng Hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, thắc mắc, kiến nghị về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Bắc Tân Uyên. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng huyện Bắc Tân Uyên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp về thời gian, diễn biến sự việc đã được nêu trong cáo trạng của Viện Kiểm sát. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp việc khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và cac tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ xác định: Lúc 15 giờ 40 phút, ngày 27/7/2021 tại chốt kiểm dịch covid -19 chân cầu T, thuộc địa bàn ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Đức H đã tàng trữ trái phép chất ma túy là Methamphetamine, trọng lượng 0,1992 gam trên xe mô tô biển số 60K1-06xx, mục đích tàng trữ để bị cáo sử dụng. Hành vi trên đây của bị cáo H hội đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Cáo trạng số 75/CT- VKS-BTU, ngày 26/10/2021 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Việc cất giấu, tàng trữ chất ma túy của bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tâm lý của chính bị cáo. Người sử dụng ma túy có thể bị ảo giác, hoang tưởng cũng là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nghiêm trọng khác để lại hậu quả rất lớn cho xã hội. Chỉ vì muốn thỏa mãn nhu cầu nghiện ngập của bản thân, bị cáo đã xem thường pháp luật, cố ý thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng. Do vậy, cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc tương xướng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và nhằm mục đích phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo là bộ đội xuất ngũ, gia đình có công với cách mạng, bị cáo có bà nội là mẹ Việt Nam anh hùng “Võ Thị L” nên áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự giảm thêm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với vật chứng là chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng sau giám định là 0,1314 gam được niêm phong trong bì thư có ký hiệu 497/PC09, là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Đối với xe mô tô biển số 60K1-06xx, nhãn hiệu SAVI, số máy: 150FM-3072546, số khung: C100M-3072546 do bà Nguyễn Thị T sở hữu cho bị cáo mượn để đi lại. Ngày 27/7/2021, H sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội, bà T không biết nên xem xét trả lại xe mô tô nói trên cho bà Nguyễn Thị T.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, màu vàng đã bị vỡ màn hình, là công cụ, phương tiện do bị cáo sử dụng phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với người nam thanh niên có tên trên facebook là “NP” (không xác định được nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho H trên cầu T thuộc địa bàn huyện V, tỉnh Đồng Nai. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã thông báo cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Đồng Nai để xác minh, điều tra xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định.

[6] Lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điểm khoản, điều luật, mức hình phạt, xử lý đồ vật, tài liệu thu giữ đối với bị cáo H là phù hợp nên Tòa chấp nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Áp dụng Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, 4 Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/7/2021.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: số lượng 0,1314 (Không phẩy một nghìn ba trăm mười bốn) gam ma túy, loại Methamphetamine được đựng trong một bì thư đã được Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong ký hiệu 497/PC09.

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, màu vàng đã bị vỡ màn hình của bị cáo Nguyễn Đức H.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị T xe mô tô biển số 60K1-06xx, nhãn hiệu SAVI, số máy: 150FM-3072546, số khung: C100M-3072546.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên).

4. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2021/HS-ST

Số hiệu:72/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về