Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 70/2023/HS-ST NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 76/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn V (tên gọi khác: Không), sinh ngày 09 tháng 4 năm 1990; tại: huyện T, tỉnh Hưng Yên; Nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã N, huyệnTiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; chỗ ở: Tổ 1, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Phạm Văn H, sinh năm 1965 và con bà Lương Thị H, sinh năm 1971; Bị cáo có vợ là Lê Thị Hồng N ( đã ly hôn) và có ba con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 01 năm 2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 03/01/2023, Tổ công tác đội cảnh sát ĐTTP về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 2, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện, bắt quả tang Phạm Văn V đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy màu trắng, mở ra bên trong gói giấy có chứa chất bột màu trắng Phạm Văn V tự giác lấy trong túi áo khoác phía trước bên phải mình đang mặc ra giao nộp, bị cáo khai nhận đó là ma túy Heroine bị cáo vừa mua và cất giấu với mục đích sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Ngày 03/01/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại, kết quả: Cục bột màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Phạm Văn V có tổng khối lượng là 0,16 gam, lấy ra 0,8 gam làm mẫu giám định cho vào túi nilon màu trắng dán kín lại ký hiệu là V, số còn lại 0,08 gam làm mẫu lưu kho cho vào túi nilon màu trắng dán kín lại ký hiệu H. Cùng ngày cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La ra quyết định trưng cầu giám định số 01/ QĐ-ĐCSKT,MT đối với mẫu có ký hiệu V thu giữ của Phạm Văn V.

Ngày 04/01/2023, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số 163/KL-KTHS kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu V là ma túy; loại Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,8 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,16 gam; loại Heroine”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra bị cáo Phạm Văn V khai nhận: Khoảng 10 giờ 20 phút, ngày 03/01/2023, Phạm Văn V đi bộ từ nhà tại Tổ 1, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La đến khu vực cổng bến xe khách thành phố Sơn La thuộc tổ 1, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng, đến nơi V gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi bị cáo không rõ tên tuổi, địa chỉ, mua 01 gói Heroine của người đàn ông đó giá là 200.000,đồng, sau khi nhận gói Heroine từ người đàn ông đó V cất vào túi áo khoác phía trước bên phải đang mặc rồi đi bộ tìm nơi sử dụng, khi V đi bộ đến khu vực tổ 2, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La thì bị tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thành phố Sơn La phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án, bị cáo khai nhận là của bị cáo mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) vào ngày 03/01/2023 tại khu vực cổng Bến xe khách thành phố Sơn La thuộc tổ 1, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không có nguồn tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở mở rộng vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 122/CT-VKSTP ngày 04/4/2023, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Phạm Văn V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phạn Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bi cao Phạm Văn V từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “ Vật chứng lưu kho vụ Phạm Văn V. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 03/01/2023. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy màu trắng; Mẫu lưu ký hiệu H = 0,08 gam”, mặt sau phong bì tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy dán niêm phong có dòng chữ “ GIẤY NIÊM PHONG – CÔNG AN TỈNH SƠN LA”, số 083210 và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La cùng chữ ký và dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong của Đỗ Huy Như, Nguyễn Thành Nam, Nguyễn Thị Chung, Phạm Trung Kiên, Trương Hoàng Dương, đối tượng Phạm Văn V và ghi dòng chữ “ Cơ quan CSĐT – CATP Sơn La hồi 14 giờ 20 phút ngày 03/01/2023 tại CATP Sơn La”.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn V nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thể hiện:

Ngày 03/01/2023, Phạm Văn V đã có hành vi cất giữ trái phép 0,16 gam chất ma túy là Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 2, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn V giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 00 phút ngày 03/01/2023 tại tổ 2, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Phạm Văn V cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy màu trắng, bên trong gói giấy có cục bột màu trắng có tổng khối lượng 0,16 gam.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 163/KL-KTHS ngày 04/01/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Trương Hoàng D, sinh năm 1995, HKTT: tổ 3, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Từ các căn cứ nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Phạm Văn V đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Phạm Văn V có hành vi tàng trữ 0,16 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng, khối lượng ma túy bị thu giữ trong vụ án là 0,16 gam thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà Nước về chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục đối với bị cáo , trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Văn V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo là đối tượng sử dụng chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án, bị cáo khai nhận là của bị cáo mua của người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) vào ngày 03/01/2023 tại khu vực cổng bến xe khách thành phố Sơn La thuộc tổ 1, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, ngoài lời khai của bị cáo không có nguồn tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở mở rộng vụ án. Do đó buộc bi cao Phạm Văn V phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy màu trắng; Mẫu lưu ký hiệu H = 0,08 gam là vật cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm a, c khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn V phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn V 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày 03/01/2023).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “ Vật chứng lưu kho vụ Phạm Văn V. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 03/01/2023. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 1 mảnh giấy màu trắng; Mẫu lưu ký hiệu H = 0,08 gam”, mặt sau phong bì tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong, trên giấy dán niêm phong có dòng chữ “ GIẤY NIÊM PHONG – CÔNG AN TỈNH SƠN LA”, số 083210 và 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La cùng chữ ký và dòng họ tên của thành phần tham gia niêm phong của Đỗ Huy Như, Nguyễn Thành Nam, Nguyễn Thị Chung, Phạm Trung Kiên, Trương Hoàng Dương, đối tượng Phạm Văn V và ghi dòng chữ “ Cơ quan CSĐT – CATP Sơn La hồi 14 giờ 20 phút ngày 03/01/2023 tại CATP Sơn La”.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/4/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Phạm Văn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Phạm Văn V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 25/4/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2023/HS-ST

Số hiệu:70/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về