Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 66/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 66/2024/HS-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2024/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam công an thành phố Hải Phòng gồm có bị cáo:

Nguyễn Bùi C, sinh năm 1984, tại Hải Phòng; Nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bùi L (đã chết) và bà Phạm Thị S, sinh năm 1949; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 5, chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 53/2016/HSST ngày 25/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/01/2016, chấp hành xong ngày 11/3/2018, phải nộp 200.000 đồng án phí HSST, đã thi hành xong ngày 13/6/2016 (chưa xóa án tích); Bản án số 97/2019/HSST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 10/6/2019, chấp hành xong ngày 25/01/2022, phải nộp 200.000 đồng án phí HSST, đã thi hành xong ngày 20/01/2020 (chưa xóa án tích); tiền sự: Không.

Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 09/11/2023 đến ngày 15/11/2023 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bùi C:

Bà Nguyễn Thị Hồng T – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam công an thành phố Hải Phòng gồm có:

Bà Nguyễn Thị L – Thư ký Toà án.

Ông Nguyễn Quang D – Cán bộ đội cảnh sát hỗ trợ tư pháp Công an huyện Thuỷ Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 00 phút ngày 09/11/2023, tại thôn 4B, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp Công an xã Tân Dương phát hiện Nguyễn Bùi C có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép ma tuý. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của C đang mặc có 03 gói giấy màu trắng, bên ngoài bọc bằng nilon màu tím, bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma tuý) và 01 xe mô tô biển kiểm soát 15G1-142.xx của C điều khiển. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các vật chứng trên để điều tra, giải quyết.

Khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực có liên quan của Nguyễn Bùi C, không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản Kết luận giám định số 914/KL-KTHS ngày 10/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Bùi C là ma túy, có khối lượng 0,57 gam, loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Bùi C khai nhận: do nghiện ma túy Heroine nên C thường xuyên đi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 09/11/2023, C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-142.xx từ nhà ở thôn B, xã D đến khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua ma túy về sử dụng. Tại đây C gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 03 gói ma tuý Heroine với giá 600.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, C cất giấu vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe đi về nhà, đến khu vực đường liên thôn thuộc thôn 4B, xã Tân Dương, thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng như trên.

Lời khai của bị can Nguyễn Bùi C phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: Chất ma tuý, vỏ bao gói còn lại sau giám định (0,41 gam Heroine) được niêm niêm phong trong một bì giấy có dấu niêm phong số 914MT/PC09 chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên quản lý.

Đối với xe mô tô biển kiểm soát 15G1-142.xx tạm giữ của Nguyễn Bùi C, quá trình điều tra, xác định số khung, số máy của xe là số nguyên thuỷ của nhà sản xuất đóng, không bị tẩy xoá hoặc sửa chữa các ký tự, chiếc xe mô tô trên thuộc sở quyền hữu của chị Lê Thị B, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng (là chị dâu của Nguyễn Bùi C). Ngày 09/11/2023 chị B cho C mượn xe để đi lại, không biết và không tham gia vào việc mua ma tuý của C nên Cơ quan CSĐT – Công an huyện Thuỷ Nguyên đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho chị Lê Thị B quản lý, sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 39/CT- VKSTN ngày 19/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Nguyễn Bùi C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Bùi C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Tại phiên toà Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh đối với bị cáo Nguyễn Bùi C và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Bùi C từ 05 năm đến 06 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 09/11/2023.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Bùi C.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu huỷ (0,41 gam Heroine) được niêm niêm phong trong một bì giấy có dấu niêm phong, số 914MT/PC09 chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên.

Tại phiên tòa Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bÞ c¸o và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo ra đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ khoản điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về đoàn tụ cùng gia đình. Ngoài ra đề nghị xem xét miễn án phí cho bị cáo.

Về án phí: Do bị cáo thuộc diện hộ nghèo được chính quyền địa phương xác nhận, nên căn cứ quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326//2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đề nghị Hội đồng xét xử, miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuỷ Nguyên, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, Kiểm sát viên thu thập, do người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác thu thập, cung cấp đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại do đó các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Nguyễn Bùi C tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuỷ Nguyên, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ vị trí, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định số 914/KL-KTHS ngày 10/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và công bố công khai tại phiên toà đã có đủ căn cứ kết luận: Do nghiện ma tuý để có ma tuý sử dụng, vào hồi 12 giờ 00 phút ngày 09/11/2023 bị cáo một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15G1-142.xx từ nhà sang khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng mua 03 gói ma tuý của một người đàn ông không quen biết với giá 600.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý bị cáo cất giấu trong túi quần bên trái rồi điều khiển xe về nhà, đến thôn 4B, xã Tân Dương, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng, thì bị công an phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng. Loại ma tuý mà bị cáo mua là Hêrôin, có khối lượng là 0,57gam, hành vi của Nguyễn Bùi C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Bị cáo Nguyễn Bùi C đã có 02 tiền án, tại Bản án số 53/2016/HSST ngày 25/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/01/2016, chấp hành xong ngày 11/3/2018, phải nộp 200.000 đồng án phí HSST, đã thi hành xong ngày 13/6/2016 (chưa xoá án tích). Tại Bản án số 97/2019/HSST ngày 23/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, xử phạt Nguyễn Bùi C 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 10/6/2019, bản án này xác định Nguyễn Bùi C phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự (chưa xoá án tích). Đến ngày 09/11/2023 bị cáo C lại tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, nên lần phạm tội này của bị cáo C phải chịu tình tiết định khung là “tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Từ những phân tích, nhận định như trên có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Bùi C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ.

[4] Xem xét đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và quyết định hình phạt.

Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bởi vậy, cần phải xử lý nghiêm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Bùi C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của người có hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng. Bị cáo đã có 02 tiền án về cùng tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo tu dưỡng trở thành người có ích cho xã hội, bị cáo lại tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo, vì vậy cần xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn, bảo đảm trừng trị người phạm tội, đồng thời bảo đảm giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho ngày 15/01/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên các vật chứng cần xử lý gồm có:

01 phong bì niêm phong số 914MT/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng chứa chất ma tuý (0,41 gam Heroine) và vỏ bao bì còn lại sau giam định, ma tuý là chất cấm thuộc quản lý độc quyền của Nhà nước nên cần tuyên tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về án phí Do bị cáo thuộc diện hộ nghèo được chính quyền địa phương xác nhận, nên căn cứ quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326//2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nên Hội đồng xét xử, xem xét miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

[8] Về nội dung khác Trong vụ án này, còn có đối tượng bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Bùi C, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở xử lý.

Chị Lê Thị B cho Nguyễn Bùi C mượn xe mô tô biển kiểm soát 15G1- 142.xx nhưng không biết C sử dụng xe để đi mua ma túy nên không đặt ra vấn đề xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bùi C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bùi C 06 (Sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09 tháng 11 năm 2023.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 914MT/PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng chứa chất ma tuý (0,41 gam Heroine) và vỏ bao bì còn lại sau giam định tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Bùi C được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Bùi C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 66/2024/HS-ST

Số hiệu:66/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về