Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 64/2023/HS-ST NGÀY 08/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2023, đối với bị cáo:

Hà Văn N, sinh ngày 07/9/1998; nơi sinh: Xã T1, huyện T2, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: Bản C, xã T1, huyện T2, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn L, sinh năm 1974 và bà Quàng Thị Th, sinh năm 1978; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09 tháng 7 năm 2023 cho đến nay (có mặt).

- Người chứng kiến:

+ Ông Phan Văn Đ, sinh năm 1962 (vắng mặt).

+ Bà Vương Thị L, sinh năm 1970 (vắng mặt).

Đều cư trú: Thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn N là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2016 cho đến ngày bị bắt giữ. Hà Văn N đang làm thợ xây ở khu đô thị N, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc và quen biết một người nam giới tên là S ở huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc.

Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 09/7/2023, S rủ N đi xây dựng công trình ở huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, N đồng ý. Sau đó, S điều khiển xe mô tô chở N từ thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc về huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc để làm xây dựng. Trên đường đi, S rủ N mua ma túy (Heroine) cùng nhau sử dụng, N đồng ý. Khi S chở N đến khu vực vòng xuyến thuộc thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, S bảo N xuống xe và nói với N đứng đợi sẽ có người đến bán ma túy (Heroine) cho N, rồi điều khiển xe mô tô bỏ đi. Khoảng 05 phút sau, có 01 người nam giới đi xe mô tô đến chỗ N hỏi N có phải người quen của S không. N xác nhận là đúng và N giao dịch trao đổi mua 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) của người này với số tiền 200.000đồng. Sau khi mua được ma tuý (Heroine), N cất gói ma túy (Heroine) vào túi quần bên trái rồi chờ S quay về đón để cùng nhau đi sử dụng ma túy. Khoảng 11 giờ 40 phút cùng ngày, lực lượng Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tuần tra, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phát hiện N có dấu hiệu khả nghi nên kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi quần bên trái của N 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng mảnh giấy màu vàng, bên trong chứa chất cục bột màu trắng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1, N khai là ma túy (Heroine) và tàng trữ để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 1955/KLGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định có khối lượng 0,2032g (không phảy hai không ba hai gam, không kể bao bì) là ma túy, loại Heroine.

Người chứng kiến ông Phan Văn Đ, bà Vương Thị L vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 63/CT-VKSTD ngày 23/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Hà Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Hà Văn N từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09 tháng 7 năm 2023; về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, thu nhập nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn trả sau giám định, mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1623gam cùng toàn bộ bao gói được niêm phong.

Bị cáo Hà Văn N không bào chữa, không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo Hà Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Hà Văn N tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ chứng cứ khách quan để kết luận:

Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 09/7/2023, sau khi mua ma túy của một người nam giới không rõ tên, tuổi, địa chỉ, Hà Văn N đã bị lực lượng Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên đoạn đường khu vực vòng xuyến thuộc thôn N, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang N đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ ma túy có khối lượng 0,2032g, loại Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Cơ quan điều tra đã thu giữ toàn bộ vật chứng và niêm phong theo quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo Hà Văn N đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, từ tội phạm về ma tuý sẽ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[5]. Đối với người nam giới tên là S ở huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc đã rủ Hà Văn N mua ma túy cùng sử dụng. Quá trình điều tra, N khai chỉ quen biết S do cùng làm thợ xây dựng, N không biết họ tên đệm, địa chỉ cụ thể của S nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc không có căn cứ để xác minh làm rõ xử lý.

Đối với người nam giới đã bán ma túy cho Hà Văn N, quá trình điều tra N khai không biết họ tên, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc không có căn cứ để xác minh làm rõ xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đối với mẫu vật hoàn trả sau giám định gồm A1 = 0,1623gam Heroine cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy ghi “MẪU TRẢ” cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định.

[7]. Về án phí: Bị cáo Hà Văn N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Hà Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 09/7/2023).

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy bao gói niêm phong mẫu vật ghi “MẪU TRẢ” ký hiệu A1 = 0,1623gam Heroine còn lại sau giám định.

(đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/11/2023).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Hà Văn N phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 64/2023/HS-ST

Số hiệu:64/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về