TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST – HS, ngày 18 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Văn B(tên gọi khác Phạm Văn T), sinh 12/8/1966;
Nơi cư trú: xóm 11, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định. Nghề nghiệp: Lao động tự do.Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B1, sinh năm 1923(đã chết), con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1923(đã chết); Vợ là Đỗ thị H, sinh năm 1971, có 3 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2001.Tiền án: Không có; Tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/7/2021 đến 23/7/2021 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 17/7/2021 Phạm Văn B đi bộ từ nhà đến khu vực phố B, xã X hỏi mua ma túy để dùng. B gặp một người đàn ông qua dò hỏi biết ông ta bán heroine; B đưa 100.000 đồng cho người này và nhận 01 gói nhỏ heroine gói trong giấy vở học sinh. Khoảng 8 giờ cùng ngày B đi đến khu vực xóm 33, xã X thì bị tổ tuần tra công an xã X kiểm tra hành chính thì B khai nhận việc vừa đi mua heroine về sử dụng. Tổ công tác mời người chứng kiến thu, niêm phong tang vật ký hiệu M, lập biên bản phạm tội quả tang rồi bàn giao cho Công an huyện điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày Công an huyện Xuân Trường khám nơi ở của B không thu giữ được gì.
Theo bản kết luận giám định số 994/GĐKTHS ngày 21/7/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong một gói giấy nhỏ bên ngoài gói bằng giấy vở học sinh, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,148 gam.
Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 04/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định truy tố Phạm Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị tuyên bố Phạm Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Phạm Văn B từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Miễn hình phạt tiền bổ sung đối với B. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu cho tiêu hủy phong bì thư hoàn trả mẫu vật sau giám định;
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì thêm đối với quyết định truy tố và bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã nhận thức rõ sai phạm của bản thân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 08 giờ 00 ngày 17/7/2021 Kết luận giám định số 994/GĐKTHS ngày 21/7/2021 của Phòng KTHS Công an tỉnh Nam Định. Lời khai của người chứng kiến. Từ các chứng cứ trên đã đủ căn cứ kết luận: Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 17/7/2021 Phạm Văn B đã có hành vi tàng trữ trong người 0,148 gam Heroine. Hành vi phạm tội của bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại tới quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến trật tự công cộng, chính sách phòng, chống tệ nạn ma túy mà Đảng và Nhà nước, nhân dân đang thực hiện quyết liệt cho nên cần nghiêm khắc phê phán và trừng trị thích đáng
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; Bản thân bị cáo có thời gian tham gia quân đội thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào; Do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Qua đánh giá tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt tù với mức án nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo mình thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Tang vật của vụ án: Tịch thu cho tiêu hủy phong bì thư đã được hoàn trả sau giám định có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng tại thi hành án dân sự huyện Xuân Trường.
[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
- Tuyên bố Phạm Văn B(tên gọi khác Phạm văn T) phạm túy tội Tàng trữ trái phép chất ma.
- Xử phạt Phạm Văn B(tên gọi khác Phạm Văn T) 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2021.
2. Căn cứ điểm c khoản 1 điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu cho tiêu hủy phong bì thư đã được hoàn trả sau giám định (Chi tiết có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng tại thi hành án dân sự huyện Xuân Trường ngày 13/10/2021 ) 3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 60/2021/HS-ST
Số hiệu: | 60/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về