Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BN ÁN 58/2022/HS-PT NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2022/TLPT-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022, đối với bị cáo Lưu Thành L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 28/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: u Thành L, sinh ngày 07/3/1976 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: 17 đường T, phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiêp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lưu Tác B(c) và bà Lê Thị L (c); Gia đình có 2 anh em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ là Nguyễn Thị P và có 2 con chung (con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2005).

Tin án, tiền sự: chưa.

Nhân thân: Bản án số 52/HS-ST ngày 21/4/1994 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tuyên phạt Lưu Thành L 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 03 năm về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ, ngày 28/10/2021, Lưu Thành L điện thoại cho Nguyễn Văn H để nhờ H mua hộ 01 gói ma túy đá với trọng lượng 2,5gam để sử dụng. H đồng ý giúp L nên điện thoại đến số: 0935.432.252 của đối tượng bán ma túy thì được báo giá là 2.200.000 đồng và hẹn địa điểm giao dịch tại cuối đường T thuộc phường A, quận L, thành phố Đà Nẵng. Sau đó, L điều khiển xe mô tô hiệu Dylan BKS: 92H1- 1234 chở H đi từ nhà của mình 17 đường T đến địa điểm giao dịch. Khi đến nơi, H đưa cho đối tượng bán ma túy số tiền 2.200.000 đồng thì được người này giao lại bì thư bên trong có ma túy và thối lại số tiền 200.000 đồng do lượng ma túy không đủ trọng lượng thỏa thuận, rồi L chở H cầm theo ma túy quay về. Khoảng 18 giờ 55 phút cùng ngày, khi cả hai đi đến trước nhà số 195 đường H thì bị tổ tuần tra Công an TP Đà Nẵng bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật tạm giữ:

- 01 bì thư kích thước (9x9) cm đựng 01 gói nilong kích thức (7,5x4)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

- 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng do H vứt bỏ xuống mặt đường.

- 01 xe mô tô Dylan BKS: 92H1-1234.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung gắn sim số: 0915.511.168; 01điện thoại di động hiệu Nokia gắn sim số: 0917.505.560 của L.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO gắn sim số: 0935.150.003 của H.

Bn kết luận giám định số: 1362/C09C-Đ2 ngày 03/11/2021của Phân viện khoa học Hình sự tại Tp. Đà Nẵng kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong gói nylon thu giữ là ma túy, loai: Methamphetamine; khối lượng: 2,17 gam.

Bn án Hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 28/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ đã quyết định: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Lưu Thành L 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Bn án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn H, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 31/3/2022, bị cáo Lưu Thành L có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xem xét theo trình tự phúc thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Lưu Thành L theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.Về nội dung: Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2022/HS-ST ngày 28/3/2022 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có cơ sở nên mức án 02 năm tù mà Tòa cấp sơ thẩm đã quyết định là phù hợp; bị cáo cho rằng bị bệnh tim nhưng đây là tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, cũng không làm thay đổi mức án của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Bị cáo Lưu Thành L thừa nhận hành vi phạm tội và tội danh án sơ thẩm đã kết luận là đúng; giữ nguyên nội dung kháng cáo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lưu Thành L khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Bản án sơ thẩm đã kết luận. Với hành vi tàng trữ trái phép 2,17 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng; Lưu Thành L bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật, đúng tội và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương, bị cáo có nhân thân xấu nên cần xử nghiêm.

Xét các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật; đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng cũng như có xét đến nhân thân của bị cáo để xử phạt mức án 02 năm tù. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo có xuất trình bệnh án bị suy tim, tuy nhiên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp, không nặng, tình tiết giảm nhẹ này được qui định tại khoản 2 Điều 51 BLHS, HĐXX xem xét bổ sung cho đầy đủ. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. n cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lưu Thành L; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

2. n cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Thành L 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lưu Thành L phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm

4. c quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bn án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-PT

Số hiệu:58/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về