Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 569/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 569/2022/HS-ST NGÀY 22/12/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 12 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 519/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 502/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Xuân S, tên gọi khác: không; sinh ngày 28 tháng 01 năm 1970; giới tính: nam; Nơi thường trú: Tổ 3, phường D, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giao: không; trình độ văn hóa: 07/10; nghề nghiệp: tự do; con ông: Trần Xuân C, sinh năm 1937; con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1940; gia đình có 5 anh em (anh cả đã chết), bị cáo là con thứ 3; vợ: Trần Thị T, sinh năm 1985; có 2 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2009.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

+ Tại bản án số 121 ngày 23.11.1991 của Tòa án nhân dân thành phố TN đã xử phạt Trần Xuân S 8 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án số 58/HSPT ngày 26/5/1992 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Thái (nay là Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên) đã giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt S 08 tháng tù về tội “Trộm 1 cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/1994. Chấp hành xong án phí ngày 09/8/1996.

+ Tại bản án số 399/HSST ngày 13/12/1995 của Toà án nhân dân thành phố TN đã xử phạt S 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/1996. Chấp hành xong án phí 07/9/1996.

+ Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ngày 21/3/2001 của Công an phường D, thành phố TN xử phạt vi phạm hành chính đối với S số tiền 50.000 đồng về hành vi xúc phạm nhân phẩm người khác. Chấp hành xong ngày 22/3/2001.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2022 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trai tam giam Công an tinh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa)

+ Người làm chứng: Ông Phạm Công T, sinh năm 1967 Địa chỉ: Tổ 6, phường D, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa)

 + Người chứng kiến:

Ông Vũ Ngọc M, sinh năm 1962 Địa chỉ: Tổ 9, phường D, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 27/7/2022, tổ công tác của Công an phường V, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 4 của phường thì phát hiện có hai người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận yêu cầu kiểm tra, hai người đàn ông khai nhận tên là Trần Xuân S và Phạm Công T (sinh năm 1967, trú tại: tổ 6, phường D, thành phố TN). S khai nhận đang cất giấu ma tuý và tự giác giao nộp 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng từ trong lòng bàn tay trái cho tổ công tác (S khai là ma tuý Heroine) mục đích mua để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S và niêm phong, thu giữ vật chứng (ký hiệu A1) theo quy định.

Cung ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 có khối lượng 0,149 gam, lấy toàn bộ số chất bột trên gửi giám định ký hiệu S.

Tại bản Kết luận giám định số 1182/KL-KTHS ngày 04/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma tuý; Loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 0,149 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Xuân S khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 27/7/2022 S và Phạm Công T cùng thuê xe ôm đi từ nhà đến Trung tâm uống Methadone, thuộc phường T, thành phố TN. Sau khi uống Methadone xong, S và T tiếp tục đi xe ôm đến khu vực Cầu B, phường Đ, thành phố TN đến nơi T và S đi bộ, sau đó S bảo T đứng ở ngoài đợi để S đi có việc, sau đó S đi bộ vào trong ngõ nhỏ tìm mua ma tuý. Tại đây, S gặp và mua 02 gói ma tuý Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 200.000 đồng. Mua xong, S cầm gói ma tuý vào trong lòng bàn tay trái rồi đi ra chỗ T đang đứng đợi rồi cùng T đi về, khi đi đến tổ 4, phường V thì bị tổ công tác của Công an phường V, thành phố TN phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án:

- 02 bì niêm phong ký hiệu S và S1 bên trong chứa ma tuý và vỏ bao gói mẫu ban đầu và vỏ bao hoàn lại sau giám định. Hiện đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng của Công an thành phố TN theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 528/CT-VKSTPTN ngày 04/11/2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Xuân S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Xuân S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Xuân S từ 21 đến 24 tháng tï. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong kí hiệu S, S1. Về án phí, đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận.

Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Hồi 09 giờ 30 ngày 27/7/2022, tổ 4, phường V, thành phố TN, Trần Xuân S đang có hành vi tàng trữ 0,149 gam chất ma tuý Heroine nhằm muc đich đê sư dung cho ban thân thì bị tổ Công tác của Công an phường V, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lơi khai tai cơ quan điều tra, lơi khai cua người chưng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luân giam đinh và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương.Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...

c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhưng có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử nhiều lần về tội “Trộm cắp tài sản” và từng bị xử phạt hành chính về hành vi xúc phạm nhân phẩm người khác, là đối tượng nghiện chất ma túy.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời, mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Vật chứng của vụ án: Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu S, S1 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu ban đầu là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo S khai mua ma túy của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đối với Phạm Công T là người đi cùng S. Quá trình điều tra T và S đều xác định T không biết và không tham gia vào việc S tàng trữ ma tuý nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân S phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Trần Xuân S 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu S, S1 (Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự TP TN. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 120 ngày 16/11/2022 giữa cơ quan Công an TP TN và Chi cục Thi hành án dân sự TP TN).

3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Trần Xuân S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 569/2022/HS-ST

Số hiệu:569/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về