Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Toà án nhân dân huyện C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2022/HSST ngày 30 tháng 5 năm 2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/HSST-QĐ ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN H, sinh năm 1997 tại B; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Tổ 4, ấp 6, xã M, huyện C, tỉnh B; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H; vợ: Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1998, có 01 con sinh năm 2022; Tiền án: Không; tiền sự: 02 (Ngày 17/12/2021 bị Ủy ban nhân nhân xã Minh Lập, huyện C, tỉnh B áp dụng biện pháp giáo dục tại xã với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định số 09/QĐ-UBND; Ngày 25/6/2014, Công an huyện C ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 350.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại Quyết định số 06/QĐ- XPVPHC, bị cáo chưa nộp phạt. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/02/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Văn P, sinh năm 1961; Địa chỉ: Tổ 6, ấp 3, xã M, huyện C, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H là đối tượng sử dụng ma túy từ tháng 6 năm 2021. Văn H thường liên lạc mua ma túy của đối tượng tên H1 (tên thường gọi là Chó ở ấp Sóc Xoài, xã Tân Hưng, huyện Hớn Quản, tỉnh B) qua số điện thoại 0961.458.327 để cất giữ sử dụng.

Ngày 23/2/2022, Văn H liên lạc và mua của H1 (chó) 1.000.000 đồng ma túy đá. H1 hẹn Văn H tại khu vực cầu Suối Nghiên thuộc ấp 5, xã Minh Lập, huyện C, tỉnh B để lấy ma túy. Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đỏ - đen, biển số 93B1-xxxx đến điểm hẹn lấy 04 gói ma túy và đưa tiền cho H. Sau đó, Văn H mang ma túy về nhà cất giấu trong ngăn tủ trang điểm của vợ.

Khoảng 12 giờ ngày 23/02/2022, Văn H lấy 01 gói ma túy ra sử dụng hết và bỏ gói đã sử dụng lại vào ngăn tủ trang điểm của vợ, số còn lại H tiếp tục cất giấu vào chỗ cũ. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Văn H lấy 03 gói ma túy chưa sử dụng trong ngăn tủ trang điểm ra và lấy 01 gói dán băng keo đen lại và cầm trên tay phải, còn 02 gói Văn H cất giấu vào trong ví da và bỏ vào cốp xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đỏ - đen, biển số 93B1-xxxx. Sau đó, Văn H điều khiển xe mô tô biển số 93B1- xxxx vào lô cao su của gia đình để đi làm thì bị lực lượng Công an xã Minh Lập kiểm tra và bắt quả tang Nguyễn Văn H cầm trên tay 01 gói nilong quấn băng keo đen hàn kín kích thước (1,7 x 2,7) cm và 02 gói nilong hàn kín trong cốp xe môtô biển số 93B1- xxxx gồm: 01 gói kích thước (0,9 x 3,6) cm và 1 gói kích thước (0,9 x 4) cm, bên trong ba gói đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy. Công an xã Minh Lập lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và giao công an huyện xử lý. Công an huyện C tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của H thu giữ 01 gói nilong hàn kín, kích thước (1 x 3,5) cm, có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn (biên bản bắt người phạm tội quả tang bút lục 01-02; Biên bản khám xét bút lục 33-34; biên bản hỏi cung bị can bút lục 56-58).

Tại bản Kết luận giám định số 55/2022/GĐ-MT ngày 01/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: tinh thể màu trắng chứa trong 03 gói nilong là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4225gam (BL 43).

Việc thu giữ đồ vật tài liệu và xử lý vật chứng:

Bản cáo trạng số 53/CTr-VKS, ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túyđề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50, 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Tại phiên tòa: bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố và không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án cũng như qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 23 tháng 02 năm 2022 Nguyễn Văn H liên lạc và mua của H1 (chó) 1.000.000đ ma túy đá. Sau đó, H đem số ma túy trên về cất dấu để sử dụng. Quá trình tuần tra công an xã Minh Lập kiểm tra và phát hiện bắt giữ H cầm trên tay 01 gói nilong quấn băng keo đen hàn kín và 02 gói nilong hàn kín trong cốp xe. Quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của H còn thu giữ thêm 01 gói nilong hàn kín. Kết luận giám định tinh thể màu trắng chứa trong các gói nilong mà H cất dấu là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,4225gam. Hành vi cất dấu ma túy nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó có đủ cơ sở kết luận Cáo trạng số 53/CTr-VKS, ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a. … c. ….Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…..” 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý để phục vụ trong y học, là nguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự địa phương, vi phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Từ phân tích trên, cần xử phạt bị cáo với mức án đủ nghiêm, cách li bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian theo mức khởi điểm mà đại diện VKS đề nghị cũng đủ để cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) phong bì có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B bên trong chứa 0,3542 gam Methamphetamine (là mẫu vật hoàn lại sau giám định) nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) ĐTDĐ nhãn hiệu SASUNG A22 màu đen, có số Imel 1:

358475773318821, Imel 2: 359111893318826 là phương tiện Văn H dùng liên lạc trong quá trình thực hiện tội phạm (dùng gọi cho H để mua ma túy) nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đỏ - đen, biển số 93B1- xxxx, số khung RLCS5C6H0EY054523, số máy 5C6H-054538 là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn P, ông P không biết việc H sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện mua và cất giữ ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện C xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho ông P nên HĐXX không xem xét giải quyết.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Đối với đối tượng tên H1 (Chó) là người bán ma túy cho Nguyễn Văn H. Tuy nhiên, đến nay Cơ quan điều tra không xác minh được nhân thân lai lịch nên không có cơ sở để xử lý. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, sữa đổi bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/02/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B bên trong chứa 0,3542 gam Methamphetamine (là mẫu vật hoàn lại sau giám định).

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) ĐTDĐ nhãn hiệu SASUNG A22 màu đen, có số Imel 1: 358475773318821, Imel 2: 359111893318826 là phương tiện bị cáo H dùng liên lạc trong quá trình thực hiện tội phạm.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về