Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2022/TLST- HS ngày 31/3/2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST- HS ngày 04/4/2022, đối với bị cáo:

Lã Huy T - Giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1981; nơi sinh: Hà Nội; HKTT: Tổ dân phố C, thị trấn Tr, huyện G, thành phố Hà Nội; chỗ ở: phố T1, phường P, quận B, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Tự do; con ông: Lã Tiến T2 và bà: Vũ Thị L (c); vợ: Lê Huyền T3, có 04 con: Con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2016; TATS: Theo danh chỉ bản số 59 ngày 07/01/2022 do Công an huyện G lập và lý lịch bị can thì bị cáo có 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2019/HSST ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Lã Huy T 14 năm tù về tội: Cướp tài sản. Lã Huy T kháng cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 161/2020/HS-PT ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt Lã Huy T 13 năm tù về tội: Cướp tài sản.

Và 01 tiền sự: Năm 1998, Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Cố ý gây thương tích.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26/12/2021; tạm giữ từ ngày 27/12/2021 đến ngày 04/01/2022 chuyển tạm giam; hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Lã Huy T là đối tượng sử dụng chất ma túy từ khoảng tháng 10/2021 đến nay. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 26/12/2021, T ở khu vực Tổ dân phố C, thị trấn Tr, huyện G, thành phố Hà Nội sử dụng điện thoại Iphone X, bên trong lắp sim số 0936819986 gọi đến số điện thoại 02939994332 của đối tượng tên B không rõ nhân thân, ở khu vực L, thành phố Hà Nội để hỏi mua 01 chỉ ma túy Ketamine (gọi là ma túy “ke”) và 05 viên ma túy MDMA (gọi là ma túy “kẹo”) mục đích để sử dụng. B đồng ý và hẹn bán ma túy cho T tại khu vực đầu ngõ M xã Đ, huyện G, Hà Nội. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T đi đến đầu ngõ M xã Đ, huyện G, Hà Nội mua của một nam T niên không rõ nhân thân ngồi ghế phía sau xe ô tô (không nhớ BKS xe) 05 viên ma túy kẹo với giá 1.750.000 đồng và một túi ni lông ma túy “Ke” với giá 3.500.000 đồng. Do không đủ tiền trả nên T khất nợ trả sau thì nam thanh niên đồng ý. Sau khi mua được ma túy T cầm ở trong lòng bàn tay trái và đi bộ đến sảnh nhà nghỉ N thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng vật chứng như đã nêu ở trên.

Ti Kết luận giám định số 66/KLGĐ-PC09 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 1,195 gam; 05 viên nén màu hồng đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 2,307 gam.

Ti bản cáo trạng số: 33/CT-VKSGL ngày 30/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Lã Huy T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lã Huy T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47; Điều 56 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 28 đến 32 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành 13 năm tù về tội: Cướp tài sản theo bản án hình sự phúc thẩm số 161/2020/HS-PT ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, buộc bị cáo phải chấp hành từ 15 năm 04 tháng đến 15 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2021; được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của bản án trước từ ngày 03/01/2017 đến ngày 20/01/2017.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

- Về xử lý vật chứng:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 túi ni lông màu trắng chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,104 gam (Đã trừ trích mẫu: 0,091 gam); 01 túi ni lông màu trắng chứa 05 viên nén màu hồng nhạt, có tổng khối lượng: 1,875gam (Đã trừ trích mẫu 0,432 gam);

+ Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone X, màu trắng; màn hình cảm ứng bị nứt, vỡ; trong có sim số 0936819986 có liên quan đến hành vi phạm tội.

i lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng huyện G là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận định giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố.

Hi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 20 phút ngày 26/12/2021, tại sảnh nhà nghỉ N, ngõ M, thôn Th, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội, bị cáo Lã Huy T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,195 gam và ma túy loại MDMA, khối lượng: 2,307 để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng.

[3]. Hành vi của bị cáo Lã Huy T đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đề nghị truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6]. Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của bị cáo có 01 tiền sự: Năm 1998, Công an huyện G xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: Cố ý gây thương tích; tiền sự này của bị cáo đã đương nhiên được xóa Và 01 tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2019/HSST ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt Lã Huy T 14 năm tù về tội: Cướp tài sản. Lã Huy T kháng cáo. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 161/2020/HS-PT ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt Lã Huy T 13 năm tù về tội: Cướp tài sản. Tiền án này. Bị cáo chưa chấp hành nên bị cáo phạm tội lần này là tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7]. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8]. Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt. Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9]. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[10]. Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11]. Thu giữ của bị cáo 01 túi ni lông màu trắng chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,104 gam (Đã trừ trích mẫu: 0,091 gam);

01 túi ni lông màu trắng chứa 05 viên nén màu hồng nhạt, có tổng khối lượng:

1,875 gam (Đã trừ trích mẫu 0,432 gam) là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[12]. Thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động Iphone X, màu trắng; màn hình cảm ứng bị nứt, vỡ; trong có sim số 0936819986 bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy nên cần cho tịch thu sung công quỹ Nhà nước là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[13]. Theo bị cáo T khai đối tượng B sử dụng số điện thoại 02939994332 liên lạc bán ma túy cho T, nhưng đến nay chưa có kết quả cung cấp dữ liệu điện tử đối với số điện thoại trên. Ngoài lời khai của bị cáo T không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Ngày 23/3/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện G đã ra Quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi của các đối tượng bán ma túy cho T và tài liệu về thông tin số điện thoại 02939994332 để tiếp tục điều tra, xác minh, khi có đủ căn cứ sẽ tiếp tục xử lý theo quy định của pháp luật là phù hợp với pháp luật.

[14]. Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[15]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[16]. Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Lã Huy T 28 (Hai mươi tám) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Buộc bị cáo Lã Huy T phải chấp hành 13 năm tù về tội: Cướp tài sản theo Bản án hình sự phúc thẩm số 161/2020/HS-PT ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, buộc bị cáo Lã Huy T phải chấp hành 15 năm 04 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2021; được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của bản án trước từ ngày 03/01/2017 đến ngày 20/01/2017.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 túi ni lông màu trắng chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,104 gam (Đã trừ trích mẫu: 0,091 gam);

01 túi ni lông màu trắng chứa 05 viên nén màu hồng nhạt, có tổng khối lượng:

1,875 gam (Đã trừ trích mẫu 0,432 gam);

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone X, màu trắng; màn hình cảm ứng bị nứt, vỡ; trong có sim số 0936819986.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/4/2022).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lã Huy T phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về