Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH TUYÊN QUANG

 BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 31/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 31 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - Trụ sở Toà án nhân dân huyện Y và điểm cầu thành phần – Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa trực tuyến xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2023/TLST-HS, ngày 11 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST-HS, ngày 19/5/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: La Văn Q, sinh năm 2000.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: tổ 8, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Cao lan; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12. Con ông La Văn L, sinh năm 1973, con bà Trần Thị T, sinh năm 1970; vợ, con: chưa có; Tiền án, nhân thân: Không.

* Tiền sự: ngày 21/12/2021 bị Công an thành phố T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền 1.500.000đ (ngày 22/12/2022, La Văn Q nộp xong tiền phạt).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt * Điểm cầu trung tâm gồm: Hội đồng xét xử; Kiểm sát viên; Thư ký phiên tòa.

* Điểm cầu thành phần gồm:

- Bị cáo La Văn Q - Cán bộ đội Thi hành án hình sự và hỗ trợ Tư pháp Công an huyện Y: Ông Nguyễn Mạnh Dũng và ông Nguyễn Phi Long.

- Kỹ Thuật viên ông Vũ Trung Hải – Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 31/01/2023, bị cáo La Văn Q một mình đi bộ ra Quốc lộ 37 đón đi xe buýt đến thành phố T để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực bến xe khách thành phố T, xuống xe đi bộ vào trong bến xe gặp, trao đổi và mua được của một người đàn ông khoảng 50 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) làm nghề lái xe ôm 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), Q cầm và xác định đó là ma túy (Hêrôin). Q cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay phải rồi đi vào nhà vệ sinh của bến xe khách lấy một ít ra sử dụng bằng cách đốt hít lấy khói vào cơ thể, số ma túy còn lại Q gói lại như cũ, cất giấu vào trong ví tiền rồi đi về nhà. Đến khoảng 17 giờ 30 ngày 01/02/2023, Quang đi đến thôn 14, xã M chơi, khi đi Q mang theo gói ma túy đã cất giấu trong ví tiền, khi đang đi bộ trên đường thuộc thôn 14, xã M, huyện Y thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Y nghi vấn kiểm tra, Q đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói ma túy mua được đang cất giấu trong ví tiền và khai nhận mục đích mua gói ma túy về để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ, niêm phong gói ma túy theo quy định.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể La Văn Q, kết quả (+) Dương tính (Có chất ma tuý trong cơ thể). Quang khai nhận mua ma túy và đã sử dụng ngày 31/01/2023 tại bến xe khách thành phố T bằng cách đốt hít lấy khói Hêrôin vào cơ thể.

Tại kết luận giám định số 257/KL-KTHS ngày 06/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine (Herôin); khối lượng 0,134g (không phẩy một ba bốn gam).

Trên cơ sở hành vi của bị cáo Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã ban hành Cáo trạng số 45/CT-VKSYS, ngày 11 tháng 5 năm 2023, truy tố bị cáo La Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát huyện Y giữ nguyên nội dung cáo trạng, truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

- Tuyên bố bị cáo La Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo La Văn Q từ 01 (một) năm 02 (hai) tháng đến 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng: đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tuyên tịch thu tiêu hủy số Heroine đã thu giữ của bị cáo.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng bị cáo xin HĐXX cho được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở để kết luận:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 01/02/2023, tại thôn 14, xã M, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang: La Văn Q, đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,134g (không phẩy một ba bốn gam) ma túy, loại Heroine, nhằm mục đích để sử dụng, bị Tổ công tác Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ chấp nhận.

[2] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội và hướng xử lý đối với bị cáo, HĐXX nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ tác hại khi sử dụng ma túy, có thể gây nghiện làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác; bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy, cần xử bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung tại địa phương.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy loại Heroine đã thu giữ của bị cáo thuộc danh mục Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác:

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của La Văn Q: Ngày 07/02/2023, Công an huyện Y đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16/QĐ- XPHC, hình thức phạt: Cảnh cáo nên HĐXX không xem xét.

- Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho La Văn Q tại khu vực bến xe khách thành phố T vào ngày 31/01/2023, không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để xem xét, xử lý trong vụ án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Về tội danh: Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo La Văn Q phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

* Về hình phạt: Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo La Văn Q 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/02/2023).

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn các mép dán kín, bên ngoài mặt trước bì niêm phong ghi chữ “Tang vật vụ La Văn Q giám định ngày 01/02/2023”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký giáp lai của La Văn Q, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y ngày 12/5/2023.

* Về án phí: Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên: Bị cáo La Văn Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: bị cáo được quyền kháng cáo bản án, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/5/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về