Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SL, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 48/2024/HS-ST NGÀY 05/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2024/TLST-HS ngày 13 tháng 03 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2024/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 03 năm 2024 đối với bị cáo:

Quàng Trường G (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 09 tháng 7 năm 1986 tại thành phố SL, tỉnh Sơn La; nơi đăng ký HKTT và nơi ở hiện nay: Bản L, phường CL, thành phố SL, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Quàng Văn S (sinh năm 1964) và con bà Tòng Thị L (sinh năm 1967); bị cáo có vợ là Quàng Thị M (sinh năm 1991) và 02 con; con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21/6/2007, bị Tòa án nhân dân thị xã SL (nay là thành phố SL) xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 11/3/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố SL xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; ngày 11/6/2002, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/01/2024 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 12/01/2024, tổ công tác Công an phường CL - Công an thành phố SL phối hợp với Trạm y tế - Ủy ban nhân dân phường CL thực hiện nhiệm vụ cao điểm trấn áp tội phạm tại nhà ở của Quàng Trường G đã phát hiện bắt quả tang Quàng Trường G, sinh năm 1986, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng và 08 (tám) viên nén đồng dạng màu hồng, G khai là ma túy Heroine và Hồng phiến, cất giữ để sử dụng.

Cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Quàng Trường G nhưng không phát hiện thu giữ gì thêm.

Ngày 12/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố SL tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì, cân tịnh và xác định khối lượng vật chứng. Kết quả:

+ Cục bột màu trắng gói trong túi nilon màu trắng có khối lượng là 1,50 gam, lấy 0,17 gam làm mẫu giám định ký hiệu Q1, còn lại 1,33 gam ký hiệu G1 niêm phong làm mẫu lưu kho.

+ 08 (tám) viên nén đồng dạng màu hồng trong gói nilon màu trắng có tổng khối lượng là 0,78 gam, lấy 03 (ba) viên có khối lượng 0,30 gam làm mẫu giám định ký hiệu Q2. Còn lại 05 (năm) viên có tổng khối lượng là 0,48 gam ký hiệu G2 niêm phong làm mẫu lưu kho.

Tại Kết luận giám định số: 332/KL-KTHS ngày 13/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu Q1 là ma túy; loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam.

“Mẫu gửi giám định ký hiệu Q2 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,30 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,50 gam, loại Heroine và 0,78 gam, loại Methamphetamine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Quàng Trường G khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 12 giờ 30 phút ngày 12/01/2024, Quàng Trường G đi bộ từ chỗ ở tại bản Lầu, phường CL, thành phố SL đến khu vực Cầu Nậm La rồi rẽ vào khu đô thị Shining thuộc tổ 1, phường CL, thành phố SL để tìm mua ma túy. Khi đi đến gần khu vực vườn hoa thuộc khu đô thị Shining thì G gặp và hỏi mua được của một người nam giới (G không biết họ tên, địa chỉ) một gói nilon bên trong có chứa 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng và 08 (tám) viên nén đồng dạng màu hồng với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Sau khi mua, G cầm gói ma túy vừa mua được về nhà. Sau khi về đến nhà thì G đi lên phòng ngủ cá nhân trên tầng 02 và lấy một ít bột màu trắng ra sử dụng rồi cất gói ma túy vào túi quần bên phải rồi đi ngủ. Đến 15 giờ 40 phút cùng ngày thì tỉnh dậy và bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Thực hiện điều tra xác minh đối với người nam giới đã bán trái phép chất ma túy cho Quàng Trường G nhưng không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 52/CT-VKSTP ngày 12/03/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Quàng Trường G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội.

Tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Quàng Trường G từ 36 (ba mươi sáu) đến 40 (bốn mươi) tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ:

01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 1,33 (một phẩy ba mươi ba) gam Heroine ký hiệu là G1 và 0,48 (không phẩy bốn mươi tám) gam Methamphetamine ký hiệu G2.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì đối đáp với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố SL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố SL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 12/01/2024, Quàng Trường G đã có hành vi cất giữ trái phép 1,50 gam Heroine và 0,78 gam Methamphetamine, hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Lời khai nhận tội của bị cáo; biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 50 phút ngày 12/01/2024 tại bản Lầu, phường CL, thành phố SL, tỉnh Sơn La đối với Quàng Trường G cùng vật chứng thu giữ là 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa cục bột màu trắng và 08 (tám) viên nén đồng dạng màu hồng, G khai là ma túy Heroine và Hồng phiến; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 332/KL- KTHS ngày 13/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Tòng Ngọc H, sinh năm 1982, trú tại bản Lầu, phường CL, thành phố SL, tỉnh Sơn La, là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang.

Từ các căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quàng Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo Quàng Trường G phạm tội tàng trữ trái phép 2 chất ma túy là 1,50 gam Heroine và 0,78 gam Methamphetamine, căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự thì hai chất ma túy thu giữ của Quàng Trường G được tính tổng là 2,28 gam, và vi phạm vào tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc loại tội phạm nghiêm trọng.

Hành vi vi phạm của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo để đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt về hành vi tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích), tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội khác. Do đó, cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe cho các hành vi tương tự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bản thân bị cáo bị bệnh AIDS (do nghiện ma túy), không có khả năng lao động, sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo để bảo đảm việc thi hành án.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua được của một người nam giới có dáng người gầy, nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực vườn hoa khu đô thị Shining thuộc tổ 1, phường CL, thành phố SL, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra xác minh, nhưng không thu thập được tài liệu chứng cứ gì, do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự toàn bộ đối với số ma túy bị thu giữ.

[9] Vật chứng của vụ án: Đối với 1,33 (một phẩy ba mươi ba) gam Heroine ký hiệu là G1 và 0,48 (không phẩy bốn mươi tám) gam Methamphetamine ký hiệu là G2 hiện đang lưu kho vật chứng, là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 01 mảnh nilon màu trắng, là vật chứng không có giá trị sử dụng, cần tịch thu và tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Trường G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Quàng Trường G 32 (ba mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện thi hành án hoặc bị bắt thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;

01 mảnh nilon màu trắng; 1,33 (một phẩy ba mươi ba) gam Heroine và 0,48 (không phẩy bốn mươi tám) gam Methamphetamine (được niêm phong trong 01 phong bì công văn có dán giấy niêm phong số 086187 của Công an thành phố SL).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/03/2024 giữa Công an thành phố SL và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố SL, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Quàng Trường G phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/4/2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2024/HS-ST

Số hiệu:48/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về