Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/TLST-HS ngày 26/03/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HS ngày 30/03/2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1989 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ 2, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; Chỗ ở: Tổ 4, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T (tên khác Phạm Xuân T) và bà Phạm Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 22/8/2019, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/05/2020; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/8/2015 Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 3.750.000 đồng về các hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy và làm ra, cất giữ trái phép dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 09/12/2015, Chủ tịch UBND phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường thời hạn 03 tháng; bị bắt, tạm giữ ngày 27/12/2020, tạm giam từ ngày 02/01/2021 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Hà D, sinh năm 1982; vắng mặt.

2. Chị Lê Thị Hồng T, sinh năm 2002; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 26/12/2020, Phạm Văn T đi xe taxi từ chỗ ở đến thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên tìm mua ma túy để sử dụng. Khi qua cầu Yên Lệnh thuộc khu vực phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên thì T gặp bạn tên H (T không rõ nhân thân, địa chỉ cụ thể), trong lúc nói chuyện T đưa cho H 1.800.000 đồng nhờ H mua hộ ma túy. H cầm tiền của T bỏ đi, một lát sau quay lại đưa cho T 01 túi nilon màu trắng hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 04 viên nén màu đỏ hồng. Biết đó là ma túy tổng hợp dạng đá và hồng phiến, T cất vào trong túi quần bên phải rồi mang về nơi ở cất giấu. Đến khoảng 21 giờ ngày 27/12/2020, T nhận được cuộc điện thoại của một người thanh niên nói: “Em là em anh C, anh C bảo em sang lấy đồ cho anh ấy”, T hỏi người thanh niên: “Em đang ở đâu?” thì người này nói: “Gần bảo tàng tỉnh”. T liền lấy túi ma túy mua được trước đó ra chia làm 04 túi nhỏ, T cất giấu 03 túi trong phòng ở và bỏ 01 túi còn lại vào trong túi quần mang theo rồi đi ra ngoài để đưa cho người thanh niên. Khi đi bộ đến khu vực đường Đề Yêm thuộc tổ 4, phường L, thành phố Phủ Lý, T bị tổ công tác Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đang làm nhiệm vụ phát hiện thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính. Tại chỗ, T tự giác lấy ra, giao nộp cho lực lượng Công an 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và khai nhận đó là ma túy đá, cất giấu với mục đích để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ tại chỗ gồm: 01 túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

Khám xét nơi ở của Phạm Văn T, Cơ quan điều tra thu giữ thêm: 01 túi nilon màu vàng xanh, bên trong có chứa 04 viên nén màu đỏ hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu KX01; 02 túi nilon màu trắng, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng niêm phong trong các phong bì ký hiệu KX02 và KX03; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phạm Văn Tú.

Tại bản Kết luận giám định số 267/PC09-MT ngày 31/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam kết luận:

“ - Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,177 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu viên nén trong phong bì ký hiệu KX01gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,393 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX02 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,262 gam, loại: Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu KX03 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,437 gam, loại: Methamphetamine”.

Bản cáo trạng số 53/CT-VKS-PL ngày 25/03/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Phạm Văn T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Phạm Văn T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Phạm Văn T từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, thu giữ, niêm phong vật chứng; kết luận giám định về chất ma túy; lời khai của người làm chứng, lý lịch tư pháp của bị cáo và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 27/12/2020, tại khu vực đường Đề Yêm thuộc tổ 4, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Phạm Văn T bị lực lượng Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý phối hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt giữ quả tang đang cất giấu trái phép 0,177 gam chất ma túy loại Methamphetamine. Khám xét nơi ở của Phạm Văn T, Cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ thêm 1,092 gam chất ma túy loại Methamphetamine. Toàn bộ số ma túy loại Methamphetamine có khối lượng tổng cộng là 1,269 gam do Phạm Văn T cất giấu trái phép đều có mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do đã bị kết án về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích; đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Làm ra, cất giữ trái phép dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy”, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường có thời hạn (đều đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Tội phạm bị cáo thực hiện là nghiêm trọng và thuộc trường hợp tái phạm, do đó cần có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người mới chấp hành xong hình phạt tù, bản thân không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định; phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (như phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người thanh niên tên H theo bị cáo khai đã gặp tại khu vực phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên là người đã đi mua ma túy đưa cho bị cáo cất giấu ngày 26/12/2020; người đàn ông tên C và người thanh niên đã gọi điện cho bị cáo hẹn đến lấy ma túy cho đối tượng C ngày 27/12/2020, do Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ phối hợp điều tra, xác minh để làm rõ nhưng không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ trong vụ án:

- Đối với chiếc điện thoại di động Nokia, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo được sử dụng làm công cụ phạm tội nên sẽ tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 căn cước công dân là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án sẽ trả lại cho bị cáo.

- Đối với toàn bộ số Methamphetamine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số IMEI: 358884076016794 (đã cũ, qua sử dụng).

- Trả lại cho bị cáo Phạm Văn T 01 (một) căn cước công dân mang tên Phạm Văn T số: 035089000603.

- Tịch thu, tiêu hủy: 04 (bốn) phong bì đã niêm phong dán kín, mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả QT01, KX01, KX02 và KX03, số 267/PC09-MT, đều có chữ ký và đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 25/03/2021.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Phạm Văn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2021/HS-ST

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về