Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 48/2021/HSST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Võ Đình C; Tên goi khac : Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 09/8/1976 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: 3/12; Con ông: Võ B (đã chết) và bà Đặng Thị C (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Thu T; Con: có 02 người; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 09/5/2011, bị Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù, ra trại ngày 02 tháng 02 năm 2013.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2020 đến nay. Có mặt.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Bích H, Công ty luật AMBER, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Họ và tên: Hồ Đức M; Tên goi khác : Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 02/5/1997 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Con ông: Hồ Đức H (đã chết) và bà Đoàn Thị N, sinh năm 1950; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/11/2020 đến nay. Có mặt.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Kiêm T, Văn phòng luật sư Trung Vinh, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Trương Minh P, sinh năm 1970; Trú tại: thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h ngày 25/10/2020, tại khu vực bản C, xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang Võ Đình C, sinh năm 1976, trú tại thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 37P4-5125 mang theo 1 bánh chất bột màu trắng nghi là ma túy (Heroine) cùng 2 điện thoại di động và số tiền 3.100.000đ. Võ Đình C khai bánh chất bột nén màu trắng bị bắt giữ là Heroine do C cùng một số người góp tiền mua nhằm mục đích cất dấu để sử dụng. Căn cứ lời khai của Võ Đình C và các chứng cứ khác, ngày 11/11/2020 cơ quan C sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Nghệ An đã ra lệnh bắt tạm giam đối với Hồ Đức M, sinh năm 1997, trú tại thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Quá trình điều tra, hành vi phạm tội của Võ Đình C và Hồ Đức M thể hiện như sau: Vào ngày 16/10/2020, Hồ Đức M và Võ Đình C gặp nhau, M biết C chuẩn bị đi ra tỉnh Nghệ An mua ma tuý đưa vào tỉnh tỉnh Quảng Nam để sử dụng nên đã xin C góp tiền và cùng đi. C đồng ý, nói khi nào đi thì sẽ gọi.

Khoảng 18h ngày 22/10/2020, Võ Đình C gọi điện thoại cho người đàn ông tên K ở bản Đ, xã M, huyện D, tỉnh Nghệ An để đặt mua 1 bánh Heroine và được K báo giá 160.000.000đ. C đồng ý, hẹn 2 đến 3 ngày nữa sẽ đi đến nhà K mua ma túy. Sau khi liên lạc với K xong, C gọi điện cho M thông báo sáng hôm sau sẽ đi ra Nghệ An và M nói C khi nào đi thì gọi. Khoảng 6h ngày 23/10/2020, C sang nhà Trương Minh P ở gần nhà C mượn chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RS màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 37P4- 5125 để đi rồi gọi điện thoại và đón M tại thị trấn E, huyện T, tỉnh Quảng Nam. C, M đi xe máy biển kiểm soát 37P4- 5125 đến thành phố Đà Nẵng và thuê phòng nghỉ. Tại nhà nghỉ, M đưa cho C 50.000.000đ để góp tiền mua ma tuý, tổng số tiền C mang theo để mua ma tuý là 165.000.000đ trong đó có 50.000.000đ do M góp cùng. Khoảng 20h ngày 23/10/2020, C và M đón xe khách từ Đà Nẵng, đưa theo chiếc xe máy biển kiểm soát 37P4- 5125 đi ra huyện C, tỉnh Nghệ An sau đó sử dụng xe máy biển kiểm soát 37P4- 5125 đi lên huyện D, tỉnh Nghệ An. Khoảng 24h ngày 24/10/2020, C chở M đến ngôi nhà của K ở bản Đ, xã M, huyện D. Do M bị đau chân nên ở lại trong nhà này còn C đi tìm gặp K và cả hai đi bộ lên trên đồi để mua ma tuý. Khoảng 8h ngày 25/10/2020, C đưa cho K 160.000.000đ, K cầm tiền rồi đi đến khoảng 11h cùng ngày thì quay lại đưa cho C 1 bánh Heroine. C bỏ bánh Heroine vào túi vải mang theo sẵn và đi về lại ngôi nhà của K mà M đã ở trước đó nhưng không thấy M nên bỏ túi chứa bánh Heroine ở giá để đồ xe máy biển kiểm soát 37P4- 5125 rồi đi xe máy về một mình. Khoảng 14h ngày 25/10/2020, khi Võ Đình C đi về đến khu vực bản C, xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang. Trong khi Võ Đình C bị bắt, Hồ Đức M đang đi xe ôm ở phía sau thấy C bị bắt nên đã tiếp tục đi ra đường Quốc lộ 7 rồi bắt xe khách về nhà.

Ngày 25/10/2020, cơ quan C sát điều tra Công an huyện D, tỉnh Nghệ An lập Hội đồng, lấy mẫu giám định. Bản kết luận giám định số 1462/KL- PC09(Đ2-MT) ngày 28/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Võ Đình C gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng thu giữ của Võ Đình C có khối lượng 355 gam.

Vật chứng của vụ án gồm: 335 gam ma túy Heroine (đã trừ 20 gam làm mẫu vật sử dụng để giám định); 1 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 358465096054062; số IMEI 2: 358466096054060; 1 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 106 màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 357685104840100, số IMEI 2: 357685105840109; 1 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RS màu đỏ đen bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 37P4- 5125; 1 ba lô vải màu nâu đã qua sử dụng thu giữ khi bắt Võ Đình C được niêm phong, bảo quản theo đúng quy định. Số tiền 3.100.000đ thu giữ khi bắt Võ Đình C (đã giám định là tiền thật) được gửi bảo quản tại Kho bạc nhà nước chi nhánh tỉnh Nghệ An.

Bản cáo trạng số 51/CT/VKS – P1 ngày 08 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định truy tố bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Võ Đình C 18 năm tù đến 19 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Hồ Đức M 16 năm tù đến 17 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) cho bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Chiếc ba lô vải màu nâu không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Điện thoại và số tiền 3.100.000 đồng là công cụ phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RS xác định không liên quan đến vụ án cần trả lại cho chủ sở hữu anh Trương Minh P.

Về án phí: Buộc các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Võ Đình C phát biểu: Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên không tranh luận về phận tội danh. Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội bị cáo đã khai báo ra đồng phạm là Hồ Đức M, hợp tác với cơ quan Điều tra trong việc phát hiện tội phạm là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, t khoản 1 điều 51 BLHS, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hồ Đức M phát biểu: Không có tranh chấp về tội danh, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tham gia đồng phạm với vai trò thứ yếu, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M đồng ý với quan điểm của Luật sư, không tranh luận với quan điểm của Kiểm sát viên, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các quyết định và hành vi tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan C sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, Luật sư và bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra cũng như các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, nên đủ căn cứ kết luận: Sáng ngày 23/10/2020, Võ Đình C điều khiển xe máy biển kiểm soát 37P4- 5125 chở Hồ Đức M đi ra Nghệ An mua ma tuý để cất dấu sử dụng. Khoảng 11h ngày 25/10/2020, tại khu vực trên đồi ở bản Đ, xã M, huyện D, tỉnh Nghệ An, Võ Đình C đã mua 1 bánh Heroine có khối lượng 355 gam của người đàn ông tên K với giá 160.000.000đ trong đó có 50.000.000đ do Hồ Đức M cùng góp để mua.

Khoảng 14h ngày 25/10/2020, khi Võ Đình C mang theo bánh Heroine nói trên đi về đến khu vực bản C, xã S, huyện D, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang. Đến ngày 11/11/2020, Hồ Đức M bị bắt tạm giam. Bản kết luận giám định số 1462/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 28/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Võ Đình C gửi tới giám định là ma túy (Heroine) có khối lượng 355 gam. Các bị cáo thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, động cơ mục đích mua Ma túy về để sử dụng, không nhằm mục đích vận chuyển hay mua bán, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự.

Như vậy, hành vi của các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước Việt Nam đối với chất ma túy, vì ma túy là nguốc gốc sâu xa làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn.Trong tình hình hiện nay, các tội phạm về ma túy ngày càng gia tăng, tính chất ngày càng nguy hiểm. Vì vậy, cần phải lên một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo và đề phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự :

[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M không có tình tiết tăng nặng.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo C sau khi bị bắt quả tang đã khai ra đồng phạm, tích cực phối hợp với cơ quan điều tra trong việc điều tra vụ án. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm t khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét vai trò các bị cáo: Đối với bị cáo C có nhân thân xấu, là người khởi xướng và là người thực hành tích cực, trực tiếp mua bán ma túy nên chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Đối với bị cáo Hồ Đức M tham gia với vai trò đồng phạm, bị cáo là người góp 50.000.000 đồng đưa cho C để đi mua ma túy nên chịu vai trò thấp hơn bị cáo C.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M có hoàn C kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) cho bị cáo.

[6] Trong vụ án này, Võ Đình C khai người bán ma túy cho C có tên là K. Cơ quan điều tra xác minh có Vy Văn K, sinh năm 1983, trú tại bản Đ, xã M, huyện D, tỉnh Nghệ An có đặc điểm như C đã khai. Tuy nhiên Vy Văn K hiện không có mặt tại địa phương, không xác định được đang ở đâu nên kiến nghị cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ hành vi của Vy Văn K, khi có đủ tài liệu chứng cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, Võ Đình C khai vào sáng ngày 22/10/2020, C gặp Cần và Lợi (là bạn nghiện ma túy) tại thị trấn E, huyện T, tỉnh Quảng Nam nên nói cho Cần, Lợi biết việc C chuẩn bị đi ra Nghệ An để mua ma túy. Cần, Lợi xin góp tiền để nhờ C mua hộ ma túy và Cần đã góp 60.000.000đ, Lợi góp 5.000.000đ cho C để mua ma túy. Do C không biết lai lịch của Cần và Lợi nên cơ quan Điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

[7] Về vật chứng vụ án: Ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành, chiếc ba lô vải màu nâu không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. 02 điện thoại di động và số tiền 3.100.000 đồng là công cụ phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Chiếc xe máy nhãn hiệu WAVE RS biển kiểm soát 37P4- 5125 đăng ký xe mang tên Ngô Thị H, sinh năm 1987, trú tại xóm 7, xã G, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Chiếc xe này đã được mua bán qua nhiều người và Trương Minh P, sinh năm 1970, trú tại Thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam là người sau cùng mua và sở hữu chiếc xe này nhưng chưa làm thủ tục đăng ký sang tên theo quy định. Ngày 23/10/2020 Trương Minh P cho Võ Đình C mượn xe, C không nói cho P biết và P cũng không biết việc C mượn xe là để đi ra Nghệ An mua ma túy nên xác định không liên quan đến vụ án cần trả lại cho Trương Minh P.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Võ Đình C 20 (hai mươi) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/10/2020.

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hồ Đức M 18 (M tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 11/11/2020.

Miễn hình phạt bổ sung (phạt tiền) cho các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M.

2. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 315 gam ma túy Heroine và 1 ba lô vải màu nâu không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu, hóa giá sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 358465096054062; số IMEI 2: 358466096054060; 1 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 106 màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 357685104840100, số IMEI 2: 357685105840109.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 3.100.000 đồng thu giữ của Võ Đình C.

- Trả lại 1 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RS màu đỏ đen bạc đã qua sử dụng, biển kiểm soát 37P4- 5125 cho chủ sở hữu là anh Trương Minh P, sinh năm 1970, trú tại Thôn 3, xã X, huyện T, tỉnh Quảng Nam.

Đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 3 năm 2021 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An và Biên bản giao nhận tài sản số 41/2020/BBBG- KBNA(VNĐ) ngày 29/12/2020 giữa Cơ quan C sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An và Kho bạc nhà nước Nghệ An

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M mỗi người phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Võ Đình C và Hồ Đức M được quyền kháng cáo Bản án lên Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền quyền kháng cáo Bản án lên Toà án Nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 48/2021/HSST

Số hiệu:48/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về