TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại rạp 19/5, trung tâm văn hóa huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2022 đối với
Bị cáo: Nguyễn Văn L; tên gọi khác: Không có; giới tính: Nam;
Sinh ngày 24/10/1994, tại xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Thôn A1, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ tên cha: Nguyễn Văn A2, sinh năm 1963; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị U, sinh năm 1965; Chưa có vợ, con; Tiền sự: Không;
Tiền án: Bản án số 71/2018/HSST ngày 30/8/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; tháng 8/2019 đã thi hành xong án phí. Bản án số 16/2019/HSST ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt của Bản án số 71/2018/HSST ngày 30/8/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, buộc chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 17/01/2020 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 5/2019 thi hành xong án phí. Bản án số 65/2020/HSST ngày 28/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng); ngày 11/01/2021 chấp hành xong hình phạt tù; tháng 9/2020 thi hành xong án phí; Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 30/12/2021 chuyển tạm giam đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Người chứng kiến:
-Ông Hòa Quang H, sinh năm 1957;
Địa chỉ: Thôn M, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
-Ông Hoàng Đình Th, sinh năm 1975;
Địa chỉ: Thôn C, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(tại phiên tòa có mặt bi cáo, vắng mặt người chứng kiến)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ ngày 28/12/2021, tại khu vực Thôn M, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bị cáo L đang đi bộ một mình có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu L về trụ sở Công an xã Ađể kiểm tra. Tại đây, trước sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến, tổ công tác tiến hành kiểm tra, phát hiện, quản lý tại túi quần bên trái phía trước L đang mặc 02 gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng dạng cục. L khai nhận đó là 02 gói Heroine L mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.
Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của L tại Thôn A1, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, không phát hiện, thu giữ gì.
Trong quá trình điều tra, bị cáo L khai nhận: Do nghiện ma túy nên khoảng 15 giờ ngày 28/12/2021, L đi bộ từ nhà đến ngã tư V, xã A2, huyện Q vào một ngõ nhỏ mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không rõ tên, địa chỉ, 02 gói Heroine với giá 100.000 đồng rồi giấu vào túi quần bên trái phía trước đang mặc và đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đi đến khu vực thôn M, xã A, huyện Q thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang.
Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai và một số biên bản hỏi cung, L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đến ngày 29/3/2022, L khai do có quen biết với anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1973, trú tại thôn M, xã A, huyện Q nên chiều ngày 28/12/2021, L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Jupiter, màu xanh đen (không nhớ rõ biển kiểm soát) của gia đình đến nhà đón anh T với mục đích cùng nhau đi tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến khu vực nghĩa trang liệt sĩ xã A2, anh T đưa cho L 200.000 đồng để mua 02 gói Heroine. L cầm tiền đi đến ngã tư V mua của 01 người đàn ông không quen biết, 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng rồi giấu vào túi quần bên trái phía trước đang mặc và tiếp tục dùng xe mô tô trên chở anh T về nhà đến khu vực thôn M, xã A, huyện Q thì Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt giữ. Trong quá trình làm việc, chỉ có một mình L còn anh T đi đâu không rõ. Cơ quan điều tra đã làm việc với anh Nguyễn Mạnh T và tiến hành đối chất nhưng anh T khẳng định lời khai của L không đúng sự thật do chiều ngày 28/12/2021 anh một mình bắt xe buýt lên thành phố B đi thăm người ốm, sau đó khi quay về nhà anh có nghe tin L bị bắt. Cơ quan điều tra đã làm việc với ông Nguyễn Văn A2, sinh năm 1963, trú tại Thôn A1, xã A, huyện Q (là bố đẻ của L). Ông A2 khai ông có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu sơn xanh, biển kiểm soát 33L5-6326. Ngày 28/12/2021 ông A2 điều khiển chiếc xe trên đi giải quyết công việc cá nhân, không đưa xe cho L sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở xác định lời khai của L quan đến anh T không đúng sự thật. Đến giai đoạn truy tố, L đã thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên.
Bản kết luận giám định số 479/KLGĐMT-PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,2665 gam (không phẩy hai nghìn sáu trăm sáu mươi lăm gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ”.
Tại bản Cáo trạng số 42/CT-VKSQP ngày 09/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Lvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo L đã khai nhận hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 28/12/2021 như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo L, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” . Đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo L từ 05 (năm) năm 03 (ba) tháng đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 28/12/2021, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
- Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 16 giờ 15 phút ngày 28/12/2021 tại trụ sở Công an xã A; Báo cáo vụ việc do Công an xã A, huyện Q lập ngày 29/12/2021; các biên bản làm việc với Công an xã Ado Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 30/3/2022 tại trụ sở Công an xã A; Biên bản quản lý đồ vật, tài liệu và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 17 giờ 50 phút; 18 giờ 05 phút cùng ngày 28/12/2021 tại trụ sở Công an xã A; Bản kết luận giám định số 479/KLGĐMT-PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản đối chất do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 14 giờ ngày 01/4/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 28/12/2021, tại thôn M, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 02 gói Heroine có khối lượng 0,2665 gam, với mục đích để sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.
Điều 249 Bộ luật Hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...............................
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
.................................
o) Tái phạm nguy hiểm.
..................................
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy: Bị cáo đã tàng trữ 02 gói Heroine có khối lượng 0,2665 gam mục đích để sử dụng thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo coi thường pháp luật, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Vì vậy Hội đồng xét xử cần phải lên một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội cũng như việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với bản án số 71/2018/HSST ngày 30/8/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh; Bản án số 16/2019/HSST ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ; Bản án số 65/2020/HSST ngày 28/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ là tình tiết định khung, vì vậy bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về quyết định hình phạt: Từ những phân tích nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và bảo đảm mục đích hình phạt nói chung.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân, hiện tại không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về nguồn gốc số Heroine, bị cáo khai mua của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ, tại khu vực ngã tư V, xã A2, huyện Qnên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 02 gói ma túy loại Heroine, xét thấy đây là vật chứng vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật
Vì các lý lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .
- Áp dụng điểm điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 28/12/2021 .
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 gói ma túy được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định số 479/KLGĐMT-PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.
“Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ ngày 10/5/2022 và hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý ”
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST
Số hiệu: | 44/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về