Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 28/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2023 Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình mở phiên tòa xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2023 đối với Bị cáo: Lò Văn Ch; tên gọi khác: không có; giới tính: Nam; Sinh ngày 13/8/1989, tại xã M, huyện U, tỉnh Lai Châu;

Nơi cư trú: Thôn L1, xã H1 huyện Qu, tỉnh Thái Bình;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Lò Văn Ch1, sinh năm 1969; Mẹ đẻ: Lò Thị H5, sinh năm 1969, hiện đều sinh sống tại xã M, huyện U, tỉnh Lai Châu; Vợ: Nguyễn Thị D, sinh năm 1991, hiện sinh sống tại xã H1, huyện Qu, tỉnh Thái Bình; Có 01 con, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: không; Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2023 đến ngày 16/01/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt bi cáo, vắng mặt những người chứng kiến)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 08 giờ 45 phút ngày 13/01/2023, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ cùng Công an xã Hlàm nhiệm vụ tại đường thôn B, xã H, huyện Qu, phát hiện bị cáo Lò Văn Ch đi bộ cầm 01 gói nhỏ ở tay trái nên đã yêu cầu Ch bỏ vào túi quần trước bên trái về trụ sở Ủy ban nhân dân xã H làm việc. Tại đây, trước sự chứng kiến của ông Cao Đức Th và anh Nguyễn Tất Ng, tổ công tác kiểm tra, phát hiện tại túi quần trước bên trái Ch mặc 01 gói vỏ ngoài là hai lớp giấy bạc, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Bị cáo Ch khai là gói ma túy, loại Heroine, mua với số tiền 100.000 đồng để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý niêm phong gói vật chứng. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ch tại Thôn L1, xã H1 huyện Qu, tỉnh Thái Bình, không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án.

Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo Ch khai nhận như sau: Do nghiện ma túy (loại Heroine) nên khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/01/2023, Ch từ nhà ra đường đi nhờ xe của người không biết tên, địa chỉ đến xã H, huyện Qu tìm mua ma túy sử dụng. Tới thôn B, xã H, huyện Qu, Ch xuống xe đi bộ vào đường nhỏ hỏi mua của nam thanh niên khoảng 28 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 gói ma túy vỏ ngoài là giấy bạc với số tiền 100.000 đồng. Ch cầm gói ma túy ở tay trái đi bộ tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện yêu cầu bỏ gói ma túy vào túi quần trước bên trái về trụ sở Ủy ban nhân dân xã H làm việc. Tại đây, trước sự có mặt của những người chứng kiến, tổ công tác kiểm tra, phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý, niêm phong gói ma túy Kết luận giám định số 70/KL-KTHS ngày 16/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình:“Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có khối lượng 0,1812 gam (không phẩy một nghìn tám trăm mười hai gam). Heroin STT: 09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ”.

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKSQP ngày 17/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Ch đã khai nhận hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy vào ngày 13/01/2023 như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn, hối cải.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Ch, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ch từ 01 (một) 03 (ba) tháng đến 01 (một) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 13/01/2023, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng và án phí hình sự theo quy định pháp luật.

- Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng xã hội, trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ và còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản quản lý đồ vật, tài liệu; biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 09 giờ, 10 giờ 35 phút, 10 giờ 55 phút ngày 13/01/2023 tại UBND xã H, huyện Qu, biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 15 giờ 15 phút ngày 13/01/2023 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Cùng toàn bộ tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 45 phút ngày 13/01/2023, tại đường thôn B, xã H, huyện Qu, tỉnh Thái Bình, bị cáo Lò Văn Ch có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1812 gam, để sử dụng cho bản thân bị tổ công tác của Công an huyện Quỳnh Phụ và Công an xã Hphát hiện bắt quả tang, thu giữ gói vật chứng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật Hình sự:Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

........................................................

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.........................................................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy: Bị cáo đã tàng trữ 01 gói Heroin có khối lượng 0,1812 gam mục đích để sử dụng thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện, xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo coi thường pháp luật, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Vì vậy Hội đồng xét xử cần phải lên một mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội cũng như việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự. Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Từ những phân tích nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và bảo đảm mục đích hình phạt nói chung.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân, hiện tại không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về nguồn gốc số Heroin, bị cáo khai mua của một nam thanh niên khoảng 28 tuổi, không biết tên, địa chỉ, ở đường thôn B, xã H, huyện Qu nên không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói ma túy loại Heroine, xét thấy đây là vật chứng vụ án, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn Ch 01(một) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 13/01/2023.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định số 70/KL-KTHS ngày 16/01/2023 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

“Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ ngày 17/4/2023 và hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý ”

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Ch phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2023/HS-ST

Số hiệu:43/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về