Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu là điểm cầu trung tâm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 43/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST-HS ngày 14/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lù A M Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 01/7/1973; Tại: TĐ, Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản TH, xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Giáy; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Lù A L - Sinh năm: 1948; con bà: Vàng Thị T - Sinh năm: 1948. Gia đình bị cáo có 05 anh chị em ruột. Bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Ú Thị Chon - Sinh năm: 1971, con: 02 người con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2022 tại Nhà tạm giữ công an huyện TĐ đến nay, có mặt tại điểm cầu thành phần.

* Điểm cầu thành phần: Nhà tạm giữ công an huyện TĐ, tỉnh Lai Châu gồm có: Bị cáo Lù A M có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Vào khoảng 18 giờ 45 phút, ngày 08 tháng 6 năm 2022, Lù A M đang ở nhà tại bản TH, xã TS, huyện TĐ thì có một người đàn ông khoảng 40 tuổi, M không biết tên tuổi, địa chỉ đến rủ M đi sử dụng ma túy. Lù A M đồng ý, sau đó người đàn ông đó đưa cho M 02 gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu hồng đốt dính một đầu và bảo M đi lấy bật lửa để cùng nhau sử dụng. Lù A M cầm hai gói Heroine bằng tay trái vào trong nhà lấy bật lửa, còn người đàn ông đó đứng ở ngoài đường chợ. M vừa cầm bật lửa và hai gói Heroine quay ra để cùng người đàn ông đó sử dụng Heroine, khi đi đến trái nhà của Lù A M, giáp đường thì gặp tổ công tác Công an xã TS, huyện TĐ yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Phát hiện có Công an, M đã thả hai gói Heroine được gói ngoài bằng nilon màu hồng đốt dính một đầu, có khối lượng 0,1 gam đang cầm trong bàn tay trái xuống đường bê tông cách vị trí M đứng là 0,45m, ném một bật lửa ga đang cầm trong tay phải xuống suối nhằm phi tang vật chứng, tránh sự phát hiện thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang vào hồi 19 giờ 15 phút ngày 08/6/2022. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, chính quyền địa phương đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lù A M về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, giữ nguyên hiện trường, mời cơ quan chức năng đến tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng theo đúng quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 25/KLGĐ, ngày 10/6/2022 của ông Phan Văn Huỳnh là Người giám định tư pháp theo vụ việc lĩnh vực kỹ thuật hình sự kết luận: “Số chất bột màu trắng thu giữ của Lù A M có tổng khối lượng là: 0,1gam (không phẩy một gam)”.

Tại bản Kết luận giám định số 522/GĐ-KTHS, ngày 10/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:“02 (hai) Mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Bản cáo trạng số 31/CT-VKSTĐ, ngày 18/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ truy tố bị cáo Lù A M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận điều tra và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện TĐ giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lù A M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lù A M từ 12 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2022. Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì Công văn Công do Công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và hai mảnh nilon mầu hồng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lù A M, sinh ngày 01/7/1973, trú tại bản TH, xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu vào ngày 08/6/2022”. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù A M theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lù A M không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Lù A M xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Lù A M đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Vào hồi 19 giờ 15 phút, ngày 08 tháng 6 năm 2022, tại Bản TH, xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu, Lù A M đang có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,1 gam (Không phẩy một gam) với mục đích để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp thực hiện thì bị tổ công tác Công an xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận biết ma túy là độc dược gây nghiện, làm tổn hại cho sức khỏe, nhân phẩm của con người và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Như vậy, đủ cơ sơ để khẳng định hành vi của bị cáo Lù A M đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, không biết chữ nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiêt tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 0,1 gam (Không phẩy một gam) heroine thu giữ của bị cáo Lù A M đã gửi đi giám định không hoàn lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với một phong bì Công văn Công do Công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và hai mảnh nilon mầu hồng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lù A M, sinh ngày 01/7/1973, trú tại bản TH, xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu vào ngày 08/6/2022” là công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Những vấn đề liên quan:

Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi, theo lời khai của bị cáo M là người đã đưa Heroine cho M vào khoảng 18 giờ 45 phút ngày 08/6/2022. Do nhân thân, lai lịch của người này không rõ ràng nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ;

[7] Về án phí:

Bị cáo Lù A M là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lù A M thuộc trường hợp miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lù A M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lù A M 12 (Mười hai ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2022.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: một phong bì Công văn Công do Công an huyện TĐ phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Phong bì niêm phong và hai mảnh nilon mầu hồng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Lù A M, sinh ngày 01/7/1973, trú tại bản TH, xã TS, huyện TĐ, tỉnh Lai Châu vào ngày 08/6/2022”.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 22/8/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ với Chi Cục thi hành án dân sự huyện TĐ).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lù A M.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về