Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 418/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 418/2023/HS-PT NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 259/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Trương Minh H1; Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2023/HS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trương Minh H1, sinh ngày 17 tháng 5 năm 1989; tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú, đăng ký HKTT và chỗ ở: quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trương Công Th1 và bà Nguyễn Thị Ngọc M1; Vợ là Lê Thanh X1và có 3 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phát 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo Bản án số 230/2014/HS-ST ngày 16/9/2014. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/02/2022 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo : Luật sư Nguyễn Thanh L1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 15 giờ 10 phút, ngày 09/02/2022, tại tầng hầm để xe chung cư CH2, khu dân cư City Land, số 18 Phan Văn Trị, Phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Công an Quận 3 phối hợp với Công an Phường 10, quận Gò Vấp phát hiện bắt quả tang Trương Minh H1 đang điều khiển xe gắn máy biển số 59F2 – xxxxx có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ trong túi quần H đang mặc 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 98,5309 gam loại Methamphetamine.

Lúc 00 giờ 50, phút ngày 10/02/2022, Công an quận Gò Vấp khám xét khẩn cấp căn hộ 309, chung cư CH2, khu dân cư City Land, phát hiện thu giữ:

- Trên bàn ở giữa căn hộ: 09 gói nylon chứa chất bột, có khối lượng 108,0495 gam, kết quả giám định không tìm thấy ma túy.

- Trên bàn phòng khách: 01 bình gas hiệu BlueSky, 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, 01 giỏ xách da.

- Trên kệ tivi phòng khách: 01 bình nhựa gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa.

- Dưới kệ tivi phòng khách: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 108,6276 gam, kết quả giám định không tìm thấy ma túy.

- Trong phòng ngủ thứ hai: 01 đĩa sứ màu đỏ đựng 01 ống hút được cuộn tròn bằng tờ tiền Việt Nam mệnh giá 20.000 đồng và 01 thẻ nhựa màu trắng.

- Trong tủ dưới bàn bếp:

+ 01 hộp giấy ghi chữ ACO-004 bên trong có: 01 cân điện tử hiệu MARLLONO, 02 nỏ thủy tinh, 02 thẻ nhựa ghi chữ CityLand.

+ 01 gói nylon chứa 02 viên nén, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn, khối lượng 0,9267 gam, loại MDMA.

+ 02 gói nylon chứa 93 viên nén, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn, khối lượng 45,1623 gam, loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine, Diazepam.

+ 01 gói nylon chứa 145 viên nén, kết quả giám định là ma tuý ở thể rắn, khối lượng 61,2908 gam, loại MDMA, Methamphetamine, Ketmine.

+ 01 gói nylon chứa 03 viên nén, có khối lượng 1,6549 gam, kết quả giám định không tìm thấy ma túy.

+ 02 hũ nhựa chứa chất bột, có khối lượng 184,5195 gam, kết quả giám định không tìm thấy ma túy.

+ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, có khối lượng 1115,92 gam, kết quả giám định không tìm thấy ma túy.

- Tại kệ bếp trên tủ lạnh: 01 khối kim loại hình vuông có rãnh ở giữa.

- Trên bàn kệ quầy bar bên phải cửa ra vào: 04 khối kim loại hình trụ tròn.

- Trong tủ dưới bàn kệ quầy bar: 02 chai nhựa chứa chất lỏng kết quả giám định không tìm thấy ma túy, có thể tích 132ml; 01 cân điện tử; 01 máy ép nylon.

- Trong tủ dưới bồn rửa bát có: 01 máy xay bằng kim loại, 01 loa nghe nhạc, 01 đèn chiếu.

Tất cả ma túy thu giữ của bị cáo trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại Bản Kết luận giám định số 1046/KLGĐ-MT ngày 18/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL số 67-69).

Trương Minh H1 khai nhận sử dụng ma túy từ năm 2021 và có quen biết với một tên C. Từ tháng 11/2021, C thuê H đến dọn dẹp căn hộ 309, chung cư CH2 và trả tiền công từ 200.000 – 300.000 đồng/lần. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 09/02/2022, C yêu cầu H đi đến Căn hộ 309, Chung cư CH2 để lấy 01 gói ma túy và xe gắn máy biển số 59F2 – xxxxx mang về nhà H cất giữ. Khi đến căn hộ 309, H được C hướng dẫn lấy 01 gói ma túy đá, chìa khóa xe máy và thẻ giữ xe máy. Sau đó H cất giấu ma túy vào túi quần đang mặc và đi xuống hầm giữ xe của chung cư lấy xe gắn máy biển số 59F2-xxxxx để điều khiển về nhà thì bị phát hiện bắt giữ.

Đối với đối tượng tên C, qua điều tra xác định tên thật là Lý Minh C, sinh năm 1993, HKTT tại 90/8 Vũ Tùng, Phường 2, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Lý Minh C khai nhận: Căn hộ 309 Chung cư CH2 do C thuê từ ngày 13/12/2022 và sống chung với T tại đây. Đến cuối tháng 12/2021, C giao căn hộ 309 lại cho T cùng với bạn T là Đ, T (không rõ lai lịch) quản lý và C chuyển đi nơi khác. Trong thời gian ở tại căn hộ 309, C có thuê Trương Minh H1 đến dọn dẹp căn hộ và trả công cho H 200.000-300.000 đồng/lần, tuy nhiên từ sau khi C chuyển đi thì không còn liên lạc với H và không biết sự việc diễn ra ở căn hộ 309.

Đối với đối tượng tên T, qua điều tra xác định tên thật là Huỳnh Minh T, sinh năm 1994, HKTT tại 27/128 Điện Biên Phủ, Phường 15, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, Cơ quan Công an đã ra Thông báo truy tìm nhưng đến nay chưa có kết quả.

Đối với các đối tượng tên Đ, T do C khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xác minh xử lý.

Đối với số ma túy thu giữ tại Căn hộ 309 Chung cư CH2 gồm 0,9267 gam MDMA; 45,1623 gam Methamphetamine, MDMA, Ketamine, Diazepam và 61,2908 gam MDMA, Methamphetamine, Ketmine do chưa đủ căn cứ quy kết Trương Minh H1 và Lý Minh C phải chịu trách nhiệm hình sự về số ma túy này nên ngày 03/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định tách vụ án số 123-13 để tiếp tục điều tra và xử lý riêng.

* Vật chứng của vụ án: Đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 156/PNK/2022 ngày 27/4/2022, số 157/PNK/2022 ngày 27/4/2022 và số 0.309/PNK/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC04) và Phòng Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10), Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Gồm có:

1. Thu giữ của Trương Minh H1:

- 01 gói niêm phong số 229/22 (1046), bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Út Lớn và Điều tra viên Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định;

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO kèm sim;

- 01 thẻ giữ xe máy ghi chữ City Land No.8103;

- 01 xe máy hiệu HONDA SH, biển số 59F2-xxxxx, qua giám định có số khung số máy không thay đổi. Kết quả xác minh chiếc xe trên do bà Phạm Thị Thiên N, sinh năm 1985, HKTT tại 436/41/15 Cách Mạng Tháng 8, Phường 11, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu. Bà N khai mua chiếc xe trên vào tháng 03/2020, đến ngày 05/02/2022, Bà N bị mất trộm chiếc xe và đã đến Công an Phường 11, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh trình báo. Ngày 11/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bàn giao chiếc xe trên cho Công an Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh để xử lý theo quy định.

2. Thu giữ khi khám xét Căn hộ 309, chung cư CH2:

- 01 gói niêm phong số 230/22 (1046) (gói 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8) bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Bùi Công Danh và Điều tra viên Nguyễn Hữu Phúc, bên trong là ma túy còn lại sau giám định;

- 01 rổ nhựa màu đỏ; 01 bình gas hiệu BlueSky; 01 điện thoại di dộng hiệu NOKIA; 01 giỏ xách;

- 01 đĩa sứ màu đỏ; 01 thẻ nhựa màu trắng; 01 hộp giấy ghi chữ ACO-004;

01 cân điện tử hiệu MARLLONO, 01 cân điện tử hiệu DIGITAL SCALE, 02 nỏ thủy tinh, 01 thẻ nhựa ghi chữ City Land, 01 khối kim loại hình vuông, 01 khối kim loại hình vuông, 01 hũ nhựa đựng 04 khối kim loại hình tròn và 08 khối kim loại hình trụ tròn; 01 máy xay bằng kim loại, 01 loa nghe nhạc hiệu JBL, 01 đèn chiếu;

- 01 camera màu trắng, có ghi CMIIT ID:2018DP2586, 01 thẻ nhớ loại 32GB;

- 20.000 đồng được cuộn tròn. Số tiền trên đã được nộp vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh tại Kho bạc Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2023/HSST ngày 06 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Trương Minh H1 14 năm tùvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/02/2022.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trương Minh H1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Trương Minh H1 thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì mức án 14 năm tù là quá nặng, luật sư của bị cáo có cung cấp một chứng cứ cho rằng bác ruột của bị cáo là người có công với cách mạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang có đủ cơ sở kết luận bị cáo H cất giữ khối lượng ma tuý 98,5309 gam loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự như án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và xử phạt bị cáo H 14 năm tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu:

Thống nhất về tội danh như án sơ thẩm đã tuyên, tuy nhiên bị cáo có một số tình tiết giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét; bị cáo phạm tội nhưng chưa hưởng lợi, bị cáo tàng trữ ma tuý là do nể nang bạn bè, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có cha mẹ là đảng viên, bác ruột là liệt sĩ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Bị cáo H thống nhất với bài bào chữa của luật sư, bị cáo không bổ sung gì thêm.

Bị cáo H nói lời nói sau cùng: Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Minh H1 đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định, được xác định là hợp lệ nên kháng cáo của bị cáo được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm:

[3] Trương Minh H1 là đối tượng nghiện ma tuý từ năm 2021, vào lúc 15 giờ 10 phút ngày 09/02/2022, tại tầng hầm để xe chung cư CH2, khu dân cư City Land, số 18 Phan Văn Trị, Phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Công an Quận 3 phối hợp với Công an Phường 10, quận Gò Vấp phát hiện bắt quả tang Trương Minh H1 đang điều khiển xe gắn máy biển số 59F2 – xxxxx có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ trong túi quần H đang mặc 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, khối lượng 98,5309 gam loại Methamphetamine.

[4] Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Minh H1 là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm vào hoạt động quản lý độc quyền của Nhà Nước về cất giữ, vận chuyển, trao đổi các chất ma túy, ngoài ra còn gây mất trật tự, trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tội cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do khối lượng ma túy mà bị cáo mua bán là 98,5309 gam ma tuý loại Methamphetamine nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Methaphetamine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo H, thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị tòa án xử phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đồng thời khối lượng ma tuý bị cáo cất giữ là 98,5309 gam (khối lượng ma tuý lớn nhất của khoản 3 Điều 249 BLHS) nên xử phạt bị cáo mức án 14 năm tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên toà phúc thẩm, luật sư của bị cáo H có xuất trình tình tiết bác ruột của bị cáo là liệt sĩ, xét đây không phải tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[6] Quan điểm của luật sư bào chữa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[9] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật kề từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Minh H1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 70/2023/HS-ST ngày 06/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

1.Tuyên bố bị cáo: Trương Minh H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

3. Xử phạt bị cáo: Trương Minh H1 14 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/02/2022.

4.Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trương Minh H1 phải chịu 200.000 đồng.

5.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 418/2023/HS-PT

Số hiệu:418/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về