TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 39/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố R xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 32/2024/TLST-HS, ngày 02 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2024/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Mạc Ngọc T, sinh ngày 29/8/1991, tại R, tỉnh G; Hộ khẩu thường trú: số 174/8/1, đường N, phường V, thành phố R, tỉnh G; chỗ ở: Lô 1 căn 16, đường H, phường V, thành phố R, tỉnh G; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mạc Ngọc B và bà Võ Thị H; vợ: Hồ Ngọc T (đã ly hôn); con có 01 người, sinh năm 2012; anh, chị ruột có 02 người, lớn sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1986; tiền án: không; tiền sự:
- Ngày 23/3/2020 bị Công an thành phố R, tỉnh G ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, hiện chưa chấp hành, chưa xoá tiền sự.
- Ngày 20/10/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố R, tỉnh G ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, ngày 16/5/2022 chấp hành xong, chưa xóa tiền sự do chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.
* Nhân thân: Ngày 26/11/2009, bị Toà án nhân dân thành phố R, tỉnh G xử phạt 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, chấp hành xong ngày 31/5/2011, đã xoá án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28/10/2023. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
- Tăng V, sinh năm 1965 (vắng mặt);
Địa chỉ: số 342/20, đường N, phường V, thành phố R, tỉnh G.
- Lê Huệ T, sinh năm 1976 (vắng mặt);
Địa chỉ: số 230, đường C, phường V, thành phố R, tỉnh G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 28/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R bắt quả tang Mạc Ngọc T đang tàng trữ trái phép chất ma túy trước quán Bar Paradiese, số 35-36, đường T, phường V, thành phố R. Thu giữ trong túi quần (phía trước bên phải) T đang mặc 01 bịch ma túy Khay (Ketamine), (bút lục số 01 đến 02).
Qua điều tra xác định được T có 01 tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy vẫn chưa chấp hành. Bản thân T sử dụng ma túy Khay từ khoảng đầu tháng 8 năm 2023. Cách ngày bị bắt quả tang trước đó khoảng 03 ngày thì T gặp được người bạn mà T quen biết ngoài xã hội tên T1 (không rõ tên thật, địa chỉ) thì T1 cho T 01 bịch ma tuý Khay để sử dụng. Khi có ma túy thì T cất giấu trong người. Vào tối ngày 27/10/2023, T mang theo bịch ma tuý Khay vào quán Bar Paradiese chơi. Tại đây, T chiết một ít ma tuý từ bịch ma tuý mang theo ra sử dụng một mình, số ma tuý còn lại trong bịch T cất trong túi quần (phía trước bên) phải T đang mặc. Đến 00 giờ 15 phút ngày 28/10/2023 khi T đi ra trước quán Bar Paradiese thì bị bắt quả tang cùng tang vật. T thừa nhận tàng trữ chất ma túy là nhằm mục đích sử dụng cá nhân. Ngày 06/11/2023 Mạc Ngọc T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam để điều tra, (bút lục số 04; 51; 53; 55 đến 56; 57; 59; 61).
Bị cáo Mạc Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Mạc Ngọc T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
* Vật chứng thu được:
- 01 (một) bịch nylon trong suốt có rãnh gài viền màu đỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng, đã được niêm phong trong phong bì màu trắng, có chữ ký xác nhận của người bị bắt Mạc Ngọc T, người chứng kiến Tăng V, Lê Huệ T, Điều tra viên Phạm Huỳnh Thanh L và dấu mộc tròn màu đỏ của Công an phường Vĩnh Lạc, thành phố R, tỉnh G.
* Tại Bản kết luận giám định số 1105/KL-KTHS, ngày 02/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G, kết luận:
Chất bột màu trắng chứa trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3211 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G.
* Theo bản cáo trạng số: 49/CT.VKSRG ngày 01/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh G truy tố bị cáo Mạc Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, tỉnh G vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Mạc Ngọc T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng trong vụ án là: 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1105/2023 ngày 06/11/2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh L và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G. Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 205, ngày 06/11/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R.
Đối với người tên T1 (không xác định tên thật, địa chỉ) đã cho bị cáo T chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố R, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố R, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Mạc Ngọc T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu; lời nhận tội trên phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, của những người tham gia tố tụng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Mạc Ngọc T có 01 tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy vẫn chưa chấp hành. Vào lúc 00 giờ 15 phút, ngày 28/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép chất ma túy, qua giám định là Ketamine, khối lượng 0,3211 gam tại trước quán Bar Paradiese, số 35-36, đường T, phường V. Mục đích T tàng trữ chất ma túy là để sử dụng cá nhân.
Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Mạc Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét về tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Tuy nhiên, xuất phát từ việc muốn có ma túy sử dụng mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt; đồng thời cũng nhằm góp phần ngăn ngừa chung loại tội phạm này trong xã hội.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[6] Theo bản luận tội mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1105/2023 ngày 06/11/2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh L và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G.
Theo quyết định chuyển vật chứng số 26, ngày 01/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R.
[9] Về các vấn đề khác: Đối với người tên T1 (không xác định tên thật, địa chỉ) đã cho bị cáo T chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố R tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo Mạc Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên bố: Bị cáo Mạc Ngọc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt: Bị cáo Mạc Ngọc T mức án 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 28/10/2023) và tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã được niêm phong, có ký hiệu vụ số 1105/2023 ngày 06/11/2023 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng N, người chứng kiến niêm phong Phạm Huỳnh Thanh L và hình dấu tròn của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh G.
Theo quyết định chuyển vật chứng số 26, ngày 01/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố R.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 12/3/2024).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2024/HS-ST
Số hiệu: | 39/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về