Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 376/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 376/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 12 năm 2023, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 346/2023/TLST-HS ngày 14/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 341/2023/QĐXXST-HS ngày 06/12/2023 đối với:

- Bị cáo: Phạm Hoàng Anh T (Tên gọi khác: Bốp); số CCCD: 04620701xxxx; sinh ngày 15 tháng 3 năm 2007, tại tỉnh H; Nơi cư trú: 1 đường H, phường p, thành phố H, tỉnh H; nghề nghiệp: Không, trình độ văn hóa: Lớp 8/12, dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam. Con ông Phạm Hoàng M và bà Ngô Phương A. Tiền án, tiền sự: Không.

Quá trình nhân thân: Ngày 17/11/2021, bị Công an thành phố H xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi trộm cắp tài sản (theo Quyết định số 7859/QĐ-XPHC).

Bị tạm giữ từ ngày 12/9/2023, chuyển tạm giam từ ngày 18/9/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố H. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Ông Phạm Hoàng M, sinh năm 1978 và bà Ngô Phương A, sinh năm 1980; trú tại: 1 đường H, phường P, thành phố H, tỉnh H; ông M vắng mặt, bà Ngô Phương A có mặt.

- Người bào cha:

Bà Đỗ Thị Thanh H, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Thành Đ, sinh năm 2002; trú tại E T, phường P, thành phố H. Vắng mặt.

2. Anh Hoàng B, sinh năm 1991; trú tại E T, phường P, thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Hoàng Anh T và Hoàng Thành Đ (sinh năm 2002, trú tại E T, phường P, thành phố H) là bạn của nhau. Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 11/9/2023, T mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 75F2-xxxxx do Đ đang quản lý, sử dụng (xe thuộc sở hữu của anh Hoàng B, sinh năm 1991, trú tại E T, phường P, thành phố H) để đi có việc. Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 11/9/2023, khi Phạm Hoàng Anh T điều khiển xe mô tô đến đoạn đường L, phường A, thành phố H thì gặp một đối tượng tên Q quen biết ngoài xã hội (không rõ họ tên, nhân thân, lai lịch cụ thể). Do muốn có ma túy sử dụng và biết Q có bán ma túy nên T hỏi Q mua 03 viên ma túy dạng kẹo và 01 túi ma túy dạng khay thì Q đồng ý bán với giá 3.400.000 đồng và giao ma túy cho T. Sau khi mua được ma túy, T điều khiển xe mô tô 75F2-xxxxx đi tìm nơi để sử dụng ma túy.

Đến khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày 11/9/2023, khi T điều khiển xe mô tô 75F2-xxxxx đi đến phía trước số nhà C đường P, phường A, thành phố H, tỉnh H, thì bị Tổ công tác của Phòng C1 - Công an tỉnh T phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Phạm Hoàng Anh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay T 01 gói ni long màu trắng viền đỏ bên trong có chứa 03 viên nén màu xám và 01 gói ni long màu trắng viền xanh bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, theo T khai nhận đó là ma túy tổng hợp dạng kẹo và khay, T mua của đối tượng Q trước đó nhằm mục đích để bản thân sử dụng.

Ngày 12/9/2023, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiến hành trưng cầu giám định các mẫu viên nén màu xám và tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Hoàng Anh T.

Tại kết luận giám định số 551/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận:

“1. 03 (ba) viên nén đều có màu xám gửi giám định (nêu tại mục 1.1, phần II) có tổng khối lượng là 1,3686g (Một phẩy ba sáu tám sáu gam), là ma túy, loại MDMA.

2. Mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định (nêu tại mục 1.2, phần II) có khối lượng là 1,2821g (Một phẩy hai tám hai một gam), là ma túy, loại Ketamine.” * Về xử lý vật chứng:

+ Đối với số ma túy hoàn lại sau khi giám định, gồm: 1,2186g (Một phẩy hai một tám sáu gam) mẫu bột được nghiền từ 03 (ba) viên nén đều có màu xám gửi giám định; 1,1821g (Một phẩy một tám hai một gam) mâu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định; đã được đóng gói, niêm phong kín bằng giấy trắng và băng keo trong, bên ngoài có 02 chữ ký của giám định viên Trần N, 02 chữ ký của điều tra viên Lê N1, 02 dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh T và dòng chữ “H1 mẫu vật vụ Phạm Hoàng Anh T, bắt ngày 11/9/2023”. Hiện đang tiếp tục tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

+ Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 75F2-xxxxx, ngày 11/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã xử lý vật chứng, trả lại cho anh Hoàng B là chủ sở hữu. Sau khi nhận lại xe, anh B không có yêu cầu gì.

Tại bản Cáo trạng số 365/CT-VKSTPH ngày 13/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Phạm Hoàng Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố H giữ nguyên bản Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng Anh T (Tên gọi khác: B1) mức hình phạt từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/9/2023.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau khi giám định (đã được đóng gói, niêm phong).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Phạm Hoàng Anh T phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Hoàng Anh T thừa nhận hành vi đã thực hiện như cáo trạng truy tố; thừa nhận trước khi bị phát hiện đã nhiều lần sử dụng trái phép chất ma tuý. Bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Phạm Hoàng Anh T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo, cho bị cáo T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự; xử bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Hoàng Anh T, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ vững chắc kết luận: Vào khoảng 21 giờ 45 phút, ngày 11/9/2023, tại trước số nhà C P, phường A, thành phố H, tỉnh H, Phạm Hoàng Anh T có hành vi tàng trữ trái phép 1,3686g (Một phẩy ba sáu tám sáu gam) ma túy, loại MDMA và 1,2821g (Một phẩy hai tám hai một gam) ma túy, loại Ketamine nhằm mục đích sử dụng thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang. Phạm Hoàng Anh T có hành vi tàng trữ trái phép 02 chất ma túy theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự nên tỷ lệ phần trăm các chất ma túy được tính theo quy định tại Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ tổng cộng là 33,7% (Ba mươi ba phẩy bảy phần trăm) - dưới 100%.

Do đó, hành vi nêu trên của Phạm Hoàng Anh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh H truy tố bị cáo Phạm Hoàng Anh T là, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Hoàng Anh T nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội.

Bị cáo T không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; ngoài ra bị cáo có ông và bà nội là người có công với cách mạng (được nhà nước tặng nhiều Huân chương kháng chiến); có Bố được nhà nước tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về biện pháp chấp hành hình phạt: Bị cáo Phạm Hoàng Anh T có nhân thân đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “trộm cắp tài sản”; đã nghỉ học, nhiều lần sử dụng trái phép chất ma tuý, do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên toà. Bị cáo Võ Đức C khi thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi (16 tuổi 5 tháng), được hưởng chính sách khoan hồng theo các quy định tại Chương XII của Bộ luật Hình sự; thấy cần có mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt, sớm về với gia đình và hòa nhập với cộng đồng xã hội.

[5]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với số ma túy hoàn lại sau khi giám định (gồm: 1,2186g (Một phẩy hai một tám sáu gam) mẫu bột được nghiền từ 03 (ba) viên nén đều có màu xám gửi giám định; 1,1821g (Một phy một tám hai một gam) mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định; đã được đóng gói, niêm phong kín bằng giấy trắng và băng keo trong, bên ngoài có 02 chữ ký của giám định viên Trn N, 02 chữ ký của điều tra viên Lê N1, 02 dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh T và dòng chữ “H1 mẫu vật vụ Phạm Hoàng Anh T, bắt ngày 11/9/2023”): là vật cấm lưu hành; không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

(Vật chứng trên hiện đã chuyên cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố H theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 14/11/2023) [6]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hoàng Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng Anh T (tên gọi khác: B1): 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 12/9/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau khi giám định (gồm: 1,2186g (Một phy hai một tám sáu gam) mu bột được nghiền từ 03 (ba) viên nén đều có màu xám gửi giám định; 1,1821g (Một phy một tám hai một gam) mu tinh th rn màu trng gửi giám định; đã được đóng gói, niêm phong kín bằng giấy trng và băng keo trong, bên ngoài có 02 chữ ký của giám định viên Trn N, 02 chữ ký của điều tra viên Lê N1, 02 dấu tròn đỏ của Phòng K Công an tỉnh T và dòng ch “H1 mu vật vụ Phạm Hoàng Anh T, bắt ngày 11/9/2023”).

(Vật chứng trên hiện đã chuyn cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố H theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 14/11/2023)

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Hoàng Anh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của bị cáo, Người bào chữa có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 376/2023/HS-ST

Số hiệu:376/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về