TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 33/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023, đối với:
Bị cáo Trần Đức L, sinh ngày 28 tháng 12 năm 1980, tại huyện L, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn Đ, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Liêm B và bà Bùi Thị H; vợ Trần Thị C, có 01 con sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 28 tháng 01 năm 2014, Công an phường L, thành phố Đ, tỉnh Nam Định ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 233/QĐ-XPVPHC, phạt bị cáo 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ từ ngày 22 tháng 7 năm 2023, đến ngày 25 tháng 7 năm 2023 chuyển tạm giam; có mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Đặng Quang H, vắng mặt.
2. Anh Trần Đức Q, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 22 tháng 7 năm 2023, lực lượng Công an xã Mỹ Phúc, làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên quốc lộ 38 đoạn từ cầu V đến ngã ba đền T thuộc địa phận xã M, huyện L, tỉnh Nam Định phát hiện tại khu vực chợ V thuộc thôn L, xã M, huyện L bị cáo Trần Đức L đang dựng xe máy, đứng một mình có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra, bị cáo L có biểu hiện khó nói, Công an xã M đã yêu cầu bị cáo nhổ vật ở trong miệng ra ngoài. Bị cáo đã bỏ ở trong miệng ra một gói ni lông màu hồng, bên trong có chứa hai gói ni lông nhỏ màu đen, mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (bị cáo khai đó là hai gói ma túy vừa mua về để sử dụng cho bản thân) giao nộp cho Công an. Công an xã Mỹ Phúc đã mời người chứng kiến, tiến hành thu giữ, niêm phong gói ma túy đồng thời đưa bị cáo và người chứng kiến về trụ sở Công an xã Mỹ Phúc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Ngoài ra, còn thu giữ một chiếc xe mô tô nhãn hiệu CPI màu xanh đã cũ biển kiểm soát 18F1-X7, một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung đã cũ.
Tại Kết luận giám định số 1176/KL-KTHS ngày 24 tháng 7 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong hai túi ni lông nhỏ màu đen đựng trong một túi ni lông màu hồng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: heroine. Tổng khối lượng mẫu: 0,212 gam.
Về nguồn gốc số heroine bị cáo Trần Đức L khai là: Ngày 22 tháng 7 năm 2023, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu CPI màu xanh, biển kiểm soát 18F1- X7 đến khu vực cầu V xã M, huyện L để mua ma túy. Tại đây, bị cáo gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ và hỏi mua của người này 200.000 đồng ma túy heroine, người này đồng ý và đưa cho bị cáo một gói ni lông màu hồng, bên trong có chứa hai gói ni lông nhỏ màu đen, mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng, bị cáo mang về mục đính để sử dụng cho bản thân, khi đi đến khu vực quốc lộ B thuộc xã M, huyện L thì bị Công an xã Mỹ Phúc bắt quả tang như đã nêu trên.
Đối với người đàn ông bán ma túy heroine cho bị cáo, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc không có đủ căn cứ để điều tra làm rõ nguồn gốc số heroine để xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với một chiếc xe mô tô nhãn hiệu CPI màu xanh đã cũ, biển kiểm soát 18F1-X7, qua xác minh là tài sản hợp pháp của ông Trần Liêm B là bố của bị cáo, ông B không biết bị cáo mượn xe để đi mua ma túy về sử dụng nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc đã trả lại xe cho ông B.
Bản cáo trạng số 32/CT-VKS-ML ngày 08 tháng 9 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Trần Đức L về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù; về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy số lượng ma túy đã thu giữ; căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tuyên nghĩa vụ chịu án phí đối với bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Đối với người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Đức L: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định chất ma túy, lời khai của người chứng kiến cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 11 giờ 15 phút, ngày 22 tháng 7 năm 2023, tại khu vực quốc lộ B thuộc thôn L, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,212 gam heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an xã Mỹ Phúc phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc truy tố là có căn cứ.
[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma túy là hiểm họa của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ. Việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép 0,212 gam chất ma túy heroine là xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là sức khỏe, tính mạng của con người trước những tác hại của ma túy và quyền quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước.
[4] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân của bị cáo, năm 2014 đã bị Công an phường L, thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Từ nhận định trên, cân nhắc tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, khối lượng ma túy, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thì cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, mục đích tàng trữ ma túy chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không có mục đích mua bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy được thu giữ sau khi được giám định là heroine vật cấm tàng trữ, lưu hành căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu và tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung thu giữ của bị cáo L, đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chiếc điện thoại này được trả lại cho bị cáo.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu CPI màu xanh, biển kiểm soát 18F1-X7, qua điều tra làm rõ chiếc xe là tài sản hợp pháp của ông Trần Liêm B là bố đẻ của bị cáo. Ông B không biết bị cáo đi mua ma túy để sử dụng, cơ quan điều tra xác định chiếc xe mô tô này không liên quan đến tội phạm nên đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức L phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Trần Đức Liêm 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 7 năm 2023.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần Đức L không bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào điểm a các khoản 2 và 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy số ma túy đã thu giữ đựng trong phong bì thư dán kín. Trả lại cho bị cáo Trần Đức L một chiếc điên thoại di động nhãn hiệu Samsung.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định ngày 08 tháng 9 năm 2023).
3. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Trần Đức L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
4. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo Trần Đức L có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST
Số hiệu: | 34/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về