Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 26/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/5/2023, tại Nhà Văn hoá thôn B, xã H, huyện C, tỉnh B. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới tiến hành xét xử lưu động, sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2023/HSST, ngày 19/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/QĐXXST- HS, ngày 12/5/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 26/8/1991, tại Thái Nguyên;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Ma Thị T; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/3/2023 đến ngày 10/3/2023 được tại ngoại – Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Ma thị T, sinh năm 1969;

Trú tại: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh B – Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 10 phút ngày 01/3/2023, Công an xã B, huyện Chợ Mới, tỉnh B kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Văn T đang điều khiển xe mô tô BKS 97AA-070.xx tại đường liên thôn thuộc thôn N, xã B cất giấu 01 gói nhỏ được gói bằng mảnh nilon màu trắng, lớp trong gói bằng giấy bạc màu vàng có chứa chất màu trắng dạng cục, bột nghi là ma túy tại túi ngoài bên phải phía trước áo phao màu xanh - đen đang mặc và 01 xilanh, 01 lọ nước cất chưa qua sử dụng tại túi trong bên trái áo phao đang mặc. Tổ công tác niêm phong 01 gói nhỏ trên trong phong bì ký hiệu NVT, niêm phong 01 lọ nước cất và 01 xilanh trong phong bì ký hiệu AB, tạm giữ xe mô tô BKS 97AA-070.xx.

Tại biên bản mở, đóng niêm phong cân xác định khối lượng ngày 01/3/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới đối với vật chứng thu giữ được trên người Nguyễn Văn T niêm phong tại phong bì ký hiệu NVT, xác định: Khối lượng chất màu trắng là 0,163g (không phẩy một sáu ba gam). Sau khi cân, chất màu trắng được cho vào phong bì niêm phong dán kín ký hiệu NVT1 gửi giám định, giấy gói cũ niêm phong vào phong bì ký hiệu NVT2.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 01/3/2023, T điều khiển xe mô tô BKS 97AA-070.xx của mẹ là bà Ma Thị T từ nhà đến khu vực xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy. Tại khu vực trường Mầm non xã Y, huyện P, T gặp và mua với 01 người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy có đặc điểm như trên với số tiền 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) rồi cất giấu vào túi ngoài bên phải phía trước áo phao màu xanh, đen đang mặc rồi điều khiển xe về nhà, trên đường đi T mua 01 xilanh, 01 lọ nước cất rồi cất vào túi trong bên trái áo phao đang mặc mục đích để sử dụng ma túy nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an xã B bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 87/KTHS-MT ngày 09/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu NVT1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, có khối lượng là 0,163g (không phẩy một sáu ba gam). Sau giám định, mẫu chất còn lại là 0,130g (không phẩy một ba không gam) cùng phong bì bao gói cũ được niêm phong vào phong bì mới ký hiệu T53 gửi trả cho Cơ quan yêu cầu giám định.

Với các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS, ngày 19/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c) Heroine có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam”.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38/BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 01/3/2023 đến ngày 10/3/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47/Bộ luật hình sựvà Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ 03 phong bì còn nguyên dấu niêm phong.

Quá trình tranh luận: Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập:

Các hành vi, quyết định tố tụng và các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 01/3/2023, tại đường liên thôn thuộc thôn N, xã B, huyện C, tỉnh B, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ 01 gói nhỏ ma túy, loại Heroine có trọng lượng (khối lượng) 0,163g (không phẩy một sáu ba gam) với mục đích để sử dụng cho bản thân. Nên hành vi của Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tổng hợp các chứng cứ lại, đánh giá diễn biến khách quan của vụ án thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy; gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo Nguyễn Văn T chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản và nguồn thu nhập nào, khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền thì không có tính khả thi, vì vậy không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 03 phong bì còn nguyên dấu niêm phong (tình trạng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án huyện Chợ Mới, tỉnh B).

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 97AA-070.xx bị tạm giữ, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc sở hữu của bà Ma Thị T, sinh năm 1969, trú tại thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh B (là mẹ đẻ của Nguyễn Văn T), khi T mượn xe đi để mua ma tuý bà T không biết, nên ngày 29/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định trả lại xe mô tô trên cho bà Ma Thị T là đúng theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn T, do bị cáo không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người này, nên Cơ quan điều tra không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/BLHS.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 01/3/2023 đến ngày 10/3/2023.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS.

+ Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì ký hiệu AB, NVT2 và T53 còn nguyên dấu niêm phong. (Tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh B ngày 20/4/2023).

3. Về án phí:

- Áp dụng điều 136/BLTTHS và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2023/HS-ST

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về