Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28/9/2022 tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Mường Nhé. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2022/TLST-HS ngày 30/8/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HS ngày 14/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đao Văn Ph (Tên gọi khác: không); Sinh năm 1979 tại huyện M, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản Ph, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đao Văn C (đã chết) và bà Mào Thị S (sinh năm 1932); Có vợ là Khoàng Thị Đ (sinh năm 1982) và có 02 người con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 18/01/2008 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Điện Biên xử phạt 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/5/2022 đến ngày 24/5/2022, tạm giam từ ngày 24/5/2022 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go Loòng, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 06 giờ 30 phút ngày 19/5/2022 Đao Văn Ph một mình lấy 05 kg gạo của gia đình đi bán được 50.000 đồng, sau đó đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết đi tìm mua ma túy về sử dụng, đi đến bản H, xã N, huyện M thì Ph xuống xe và đi bộ vào nhà anh Thào A Ch, thấy không có ai ở nhà Ph đi ra phía khu vực chuồng gà, nhìn thấy ở trong ổ trứng gà có một lọ nhựa màu trắng, mở ra xem thấy có chất nhựa dẻo màu nâu đen bên trong, Ph cho rằng đó là thuốc phiện nên lấy lọ nhựa đó cất vào túi áo bên phải rồi đi bộ quay về nhà. Đến 9 giờ 30 phút cùng ngày khi Ph về đến khu vực cầu treo thuộc bản H, xã N, huyện M thì bị tổ công tác Đồn biên phòng N phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi áo bên phải Ph mặc một lọ nhựa màu trắng bên trong có 63,6 gam thuốc phiện và 50.000 đồng. Phiêng khai nhận mục đích mua thuốc phiện về để sử dụng cho bản thân.

Kết luận giám định số 687/KL-KTHS ngày 21/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Đao Văn Ph là 63,6 gam; Mẫu chất dẻo màu nâu đen thu giữ của Đao Văn Ph gửi giám định là chất ma túy: Loại thuốc phiện; Hoàn lại đối tượng giám định 33,2 gam, bì niêm phong cũ và 01 lọ nhựa màu trắng nắp vàng.

Kết luận giám định số 763/KL-KTHS ngày 10/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: 01 tờ tiền có mệnh giá 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng) có mã hiệu cụ thể: JH 19628349 là tiền thật.

Cáo trạng số 27/CT-VKSMN ngày 29/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố Đao Văn Ph để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 10 tháng; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 33,2 gam thuốc phiện và 01 lọ nhựa màu trắng có nắp màu vàng; đề nghị trả lại cho bị cáo 50.000 đồng; Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; điều khoản áp dụng; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng vụ án và án phí; phần hình phạt chính đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng tù.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét hành vi phạm tội và những căn cứ xác định tội danh của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Đao Văn Ph khai: Ngày 19/5/2022 bị cáo đi bộ vào nhà anh Thào A Ch, ở bản H, xã N, huyện M, tìm thấy một lọ nhựa màu trắng, bên trong có 63,6 gam thuốc phiện. Đến 9 giờ 30 phút cùng ngày 19/5/2022 khi Ph quay về đến khu vực cầu treo thuộc bản H, xã N, huyện M thì bị tổ công tác Đồn biên phòng N phát hiện bắt quả tang, thu giữ 63,6 gam thuốc phiện trong lọ nhựa và 50.000 đồng. Bị cáo Ph khai mục đích là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo nghiện ma túy. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vậy có đủ căn cứ để xác định hành vi tàng trữ trái phép 63,6 gam thuốc phiện với mục đích để sử dụng của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 27/CT-VKSMN, ngày 29/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé truy tố bị cáo để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án:

Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2008 đã bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt của bản án của năm 2008 và đã được xóa án tích. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có bố đẻ là ông Đao Văn C được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng hai hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt bị cáo nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 10 tháng tù. Người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng tù. Xét đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của viện kiểm sát và người bào chữa.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn (Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, xác minh tại gia đình không có tài sản gì có giá trị), hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đi với anh Thào A Ch, sinh năm 1975, trú tại bản H, xã N, huyện M, quá trình điều tra đã xác minh Ch và gia đình không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý.

Đi với người đàn ông cho bị cáo đi nhờ xe mô tô, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên không có cơ sở để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đi với 33,2 gam thuốc phiện còn lại sau khi đã trích giám định (Khối lượng thuốc phiện thu giữ là 63,6 gam; Hoàn lại đối tượng giám định 33,2 gam) cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Đi với số tiền 50.000 đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đây là số tiền bị cáo bán gạo của gia đình để đi mua thuốc phiện về sử dụng, chưa dùng số tiền này mua thuốc phiện thì bị thu giữ, số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thuộc diện hộ nghèo, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên cần căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Đao Văn Ph phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Xử phạt bị cáo Đao Văn Ph 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt bị tạm giữ, ngày 19/5/2022.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu huỷ 33,2 gam thuốc phiện (Khối lượng thuốc phiện thu giữ là 63,6 gam, hoàn lại mẫu vật giám định 33,2 gam); 01 lọ nhựa màu trắng có nắp vàng. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2022 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

Trả lại cho bị cáo 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng). Số tiền này hiện đang tạm gửi tại số tài khoản 3949.0.1072731.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Mường Nhé.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 28/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về