TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 295/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 371/2023/TLST-HS, ngày 25 tháng 10 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 415/2023/QĐXXST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1995, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số C, đường T, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (nhà đã bán, đi khỏi địa phương và đi đâu không rõ); nơi ở: Phòng trọ số G-nhà số F, Đường Số E, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (thực tế không có cư trú tại đây); nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ) và bà Nguyễn Thị Kim T; chưa chồng, có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2021 (không trực tiếp nuôi con); tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 29/01/2019, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong ngày 24/5/2020, được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); bị bắt tạm giữ ngày 29-6-2023, tạm giam ngày 05-7-2023 “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 29/6/2023, Tổ tuần tra-Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về Ma túy-Công an quận B cùng với Công an phường T đến trước nhà số F, Đường Số E, phường T, quận B thì nhìn thấy Nguyễn Thị Hồng N có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu mà N đang cầm nắm trong lòng bàn tay trái. Khi đó, N cho biết là ma túy loại “hàng đá” của N để sử dụng nên Tổ công tác đưa N cùng với vật chứng đến Công an phường T xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, N đã khai nhận: Do nghiện ma túy nên lúc 20 giờ ngày 28/6/2023, N đến khu vực đường M, thuộc Quận F mua gói ma túy trên của tên P (không rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng rồi sau đó mang theo bên người để sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Theo kết luận giám định thì 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4049g, loại Methamphetamine.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Hồng N đã khai nhận: Do nghiện ma túy nên lúc 20 giờ ngày 28/6/2023, N đến khu vực đường M, thuộc Quận F mua 01 gói ma túy loại “hàng đá” của tên P (không rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng rồi mang theo bên người để sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về khối lượng ma túy đã giám định và việc giải quyết vật chứng; riêng đối với các con của bị cáo thì tuy còn nhỏ nhưng bị cáo không có trực tiếp nuôi mà gửi cho mẹ ruột nuôi.
Tại Cáo trạng số: 306/CT-VKS, ngày 13 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hồng N ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4049g, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị giao trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Vivo và tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy sau giám định.
Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Hồng N tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 29/6/2023, tại trước nhà số F, Đường Số E, phường T, quận B. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 7106/KL-KTHS, ngày 07/7/2023 của Phòng K-Công an Thành phố H thì, “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Hồng N, Phạm Minh T1 (người chứng kiến), Nguyễn T2 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường T, quận B”, gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4049g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo Nguyễn Thị Hồng N đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định khối lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với tên P bán ma túy cho bị cáo do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét cho đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.
[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật; bản thân đã từng bị xét đưa đi cai nghiện bắt buộc 18 tháng nhưng vẫn còn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có điều kiện về kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu VIVO I1, số thuê bao 0938305X của bị cáo, do không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần giao trả lại cho bị cáo. Còn 01 gói niêm phong chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thị Hồng N, Phạm Minh T1 (người chứng kiến), Nguyễn T2 (điều tra viên) và hình dấu Công an phường T, quận B là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 29-6-2023.
2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Hồng N 01 điện thoại di động hiệu VIVO I1, số thuê bao 0938305X.
- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Thị Hồng N, Phạm Minh T1 (người chứng kiến), Nguyễn T2 (điều tra viên) và hình dấu Công an phường T, quận B.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK24/14TAM, ngày 18/10/2023)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Bị cáo Nguyễn Thị Hồng N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 295/2023/HS-ST
Số hiệu: | 295/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về