Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN - TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 29/2023/HS-ST NGÀY 12/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12/6/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/HSST ngày 17 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Quách Văn T, sinh ngày 16 tháng 02 năm 1997 tại: xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Thếnh, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch Việt Nam; Con ông: Quách Văn S, sinh năm 1972 và bà Bùi Thị Kh, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/02/2023. Có mặt.

2. Quách Văn C, sinh ngày 04 tháng 9 năm 1999 tại: xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm Éo, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch Việt Nam; Con ông: Quách Văn H, sinh năm 1972 và bà Quách Thị H, sinh năm 1974; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/02/2023. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Quách Văn S, sinh năm 1972; Nơi cư trú: xóm Thếnh, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người chứng kiến:

+ Anh Bùi Văn H1, sinh năm 1986; Nơi cư trú: xóm Châu Tróng, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt;

+ Anh Bùi Văn Kh, sinh năm 1984; Nơi cư trú: xóm Châu Tróng, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 00 phút, ngày 08/02/2023 Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình phối hợp với Công an các xã Quyết Th, Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại đoạn đường thuộc xóm Thếnh, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn thì phát hiện và bắt quả tang Quách Văn T, sinh năm 1997, cư trú tại xóm Thếnh, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28N1 - X đi hướng từ xã Chí Đạo đi xã Quyết Th, chở người ngồi sau là Quách Văn C, sinh năm 1999, cư trú tại xóm Éo, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình có biểu hiện hoạt động tội phạm về ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu dừng xe lại để tiến hành kiểm tra thì phát hiện và thu giữ tại bên trong lòng bàn tay trái của Quách Văn C đang cầm 02 (hai) gói giấy bạc bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng (C và T đều khai là ma túy). Tổ công tác Công an huyện Lạc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng, đưa Quách Văn T và Quách Văn C về trụ sở Công an huyện Lạc Sơn để làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, Quách Văn T và Quách Văn C đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình và khai về nguồn gốc số ma túy do Công an huyện Lạc Sơn thu giữ khi bắt quả tang ngày 08/02/2023 cụ thể như sau: Do bản thân đều là những người nghiện ma túy, nên khoảng 18 giờ, ngày 08/02/2023 Quách Văn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28N1- X của gia đình đến nhà Quách Văn C để rủ C đi mua ma túy về để sử dụng. Tại đây T và C bàn bạc với nhau mỗi người góp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), sau khi góp tiền xong T điều khiển xe mô tô chở C đi xuống khu vực xã Chí Đạo, huyện Lạc Sơn để tìm mua ma túy. Tại xã Chí Đạo, T và C đã gặp và mua được 02 (hai) gói ma túy của một người đàn ông không quen biết, không rõ địa chỉ và đặc điểm nhận dạng với số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Mua được ma túy Quách Văn C cất giấu bên trong lòng bàn tay trái của mình, Quách Văn T tiếp tục điều khiển xe mô tô chở C đi tìm nơi để sử dụng chất ma túy thì bị phát hiện và bắt giữ.

Tại bản Kết luận giám định số 67/KL-KTHS ngày 15/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu G1, G2 trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Quách Văn T, sinh năm 1997 và Quách Văn C, sinh năm 1999” gửi giám định có tổng khối lượng 0,62 gam (không phẩy sáu mươi hai gam) là ma túy, loại Heroine.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

+ 01 (một) phong bì niêm phong nguyên vẹn mẫu giám định ma túy của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hòa Bình, một mặt có ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ: Quách Văn C và Quách Văn T - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 08/02/2023 tại xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình, chữ ký của cán bộ giám định và chữ ký của cán bộ Công an huyện Lạc Sơn - Hòa Bình.

Vật chứng trên Viện KSND huyện Lạc Sơn chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn quản lý chờ xử lý.

+ 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 28N1-X, số khung: DCG1DL71002586; số máy: F1P50FMG-3*70002586*, màu sơn nâu, xe cũ đã qua sử dụng.

Đối với chiếc xe mô tô trên, trong quá trình điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạc Sơn đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu quản lý, bảo quản.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Quách Văn T và Quách Văn C đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKS ngày 17/5/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với các bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Quách Văn T từ 21 đến 24 tháng tù;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt bị cáo Quách Văn C từ 21 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C do không có tính khả thi.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Quách Văn T và Quách Văn C vào ngày 08/2/2023 tại khu vực xã Chí Đạo, tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Đối với ông Quách Văn S (là bố đẻ của bị cáo Quách Văn T) chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 28N1-X, việc Quách Văn T sử dụng xe mô tô trên và có hành vi phạm tội thì ông Quách Văn S không biết nên đề nghị HĐXX không xem xét xử lý.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định được lưu giữ trong phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

Các bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Các bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng các bị cáo Toán và Đức ăn năn hối hận về việc làm của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo cải tạo trở thành người lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của các bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 08/2/2023; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định số 67/KL- KTHS ngày 15/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hòa Bình; lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 20 giờ 00 phút, ngày 08/02/2023 tại xóm Thếnh, xã Quyết Th, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, do bản thân thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy nên Quách Văn T và Quách Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,62 gam (không phẩy sáu mươi hai gam) chất ma túy, loại Heroine. Mục đích để sử dụng cho bản thân. Quách Văn T và Quách Văn C là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp nên hành vi của Quách Văn T và Quách Văn C phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố các bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,62g (không phẩy sáu mươi hai gam) chất ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây nghiện làm hại cho sức khỏe, các bị cáo nhận thức được những quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, nghiêm cấm việc mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, các bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra. Hành vi của các bị cáo là đồng phạm mang tính giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không phải tội phạm có tổ chức. Trong đó bị cáo Quách Văn T giữ vai trò đồng phạm là người xúi giục, rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội; bị cáo Quách Văn C giữ vai trò giúp sức tích cực và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp cất giấu ma túy trong người, là người trực tiếp hỏi và giao dịch ma túy với người đàn ông ở khu vực xã Chí Đạo. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tính chất của tội phạm là nghiêm trọng.

[4]. Về nhân thân: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng đều là người nghiện ma túy.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, các bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tuy nhiên tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự hối hận về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, các bị cáo được hưởng thêm các tình tết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với các bị cáo. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo như mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa đề nghị mới đủ tác dụng cải tạo các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[8]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, số ma túy thu giữ được của bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 28N1-X, số khung: DCG1DL71002586; số máy: F1P50FMG-3*70002586*, màu sơn nâu, xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Quách Văn S. Việc Quách Văn T và Quách Văn C thực hiện hành vi phạm tội ông Quách Văn S không biết và không liên quan, do vậy Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Sau khi nhận lại tài sản, ông S không có ý kiến gì và việc xử lý vật chứng nêu trên của cơ quan điều tra đúng quy định của pháp luật, nên HĐXX không xem xét.

[9]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Quách Văn T và Quách Văn C vào ngày 08/2/2023 tại khu vực xã Chí Đạo, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[10]. Đối với ông Quách Văn S là chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 28N1-X, việc Quách Văn T sử dụng xe mô tô trên và có hành vi phạm tội thì ông Quách Văn S không biết không biết nên HĐXX không xem xét xử lý.

[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[12]. Các bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Quách Văn T và bị cáo Quách Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Quách Văn T 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 08/02/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Quách Văn C 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 08/02/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ của bị cáo Quách Văn T và bị cáo Quách Văn C.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/5/2023 giữa Công an huyện Lạc Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn.

4. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án, buộc các bị cáo Quách Văn T và Quách Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2023/HS-ST

Số hiệu:29/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về