Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Lê Đức T, sinh ngày 11/10/1991 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Thượng An, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hồng và bà Nguyễn Thị Hòa; tiền sự: Không; Tiền án: 01 tiền án:

- Ngày 12/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 210/2018/HS-ST). Chấp hành xong hình phạt ngày 10/12/2019.

Quá trình nhân thân:

- Ngày 25/3/2014, bị Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội tuyên phạt 28 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 57/2014/HSST).

Bị tạm giữ từ ngày 05/02/2021, đến ngày 09/2/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Nhật P, sinh ngày 25/9/1998 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Sơn Quả, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh;

giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Anh và bà Trương Thị Lan; tiền án, tiền sự: Không; quá trình nhân thân:

- Ngày 13/6/2018, bị Công an phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 300.000 đồng vì có hành vi gây mất trật tự công cộng (theo Quyết định số 4919/QĐ-XLVPHC) (đã nộp đủ).

Bị tạm giữ từ 04/02/2021, đến ngày 09/2/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Trần Thị Hồng N; địa chỉ: huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

2. Ông Phạm Ngọc T; địa chỉ: phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 30 phút ngày 03 tháng 02 năm 2021, Nguyễn Nhật P đến dự tiệc sinh nhật của một người bạn tên Sơn (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) tại thành phố Huế. Trong lúc dự tiệc, Phú có sử dụng ma túy với những người trên. Ngồi chơi đến khoảng 03 giờ sáng thì Phú lấy 01 viên ma túy bỏ vào túi áo khoác của mình rồi ra về. Sau đó, Phú đi đến khu vực bờ hồ thành phố Huế gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) và mua 05 viên ma túy dạng hồng phiến với số tiền 300.000 đồng. Phú bỏ 05 viên hồng phiến và 01 viên ma túy trước đó vào 01 gói thuốc hiệu WHITE HOURSE rồi bỏ vào trong túi áo khoác rin của mình rồi gọi xe taxi để về nhà tại xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do không đủ tiền trả tiền đi xe taxi nên Phú đi đến phòng trọ của Lê Đức T tại TDP Giáp Trung, phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế để xin ngủ lại và được Thọ đồng ý. Phú đi vào phòng và cởi áo khoác rin có chứa 06 viên ma túy treo lên móc áo quần sát cửa ra vào phòng của Thọ rồi nằm ngủ. Đến sáng ngày 04/02/2021, Công an thị xã Hương Trà qua công tác kiểm tra, test ma tuý các đối tượng tại địa bàn phường Hương Văn, thị xã Hương Trà đã phát hiện Nguyễn Nhật P, Lê Đức T, Trần Thị Hồng N (trú tại: xã Đồng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, là bạn gái của Lê Đức T) dương tính với ma tuý. Tiến hành khám xét nơi ở của Lê Đức T thu giữ 06 viên ma túy bỏ trong áo khoác rin của Nguyễn Nhật P.

Trong quá trình khám xét đã thu giữ 09 viên hồng phiến cất giấu trong 01 khẩu trang và 01 hộp đựng kính tại phòng trọ của Lê Đức T. Số ma túy này, Lê Đức T khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào ngày 02/02/2021, Lê Đức T đi đến khu vực chợ Nọ, thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) mua 09 viên hồng phiến với giá 450.000 đồng về để sử dụng. Thọ bỏ 09 viên hồng phiến vào khẩu trang của mình đang đeo (khẩu trang vải, được cắt 01 lỗ ở mặt bên) rồi mang về phòng trọ của mình. Đến ngày 03/2/2021, Thọ lấy 03 viên hồng phiến từ khẩu trang bỏ vào hộp nhựa đựng kính đặt ở dưới góc bàn trong phòng trọ để sử dụng dần. Đến ngày 04/02/2021, quá trình khám xét, Công an thị xã Hương Trà đã phát hiện, thu giữ.

Ngày 04 tháng 02 năm 2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xác định: 05 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu hồng; 06 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu hồng; 02 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng; 01 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng; 01 viên nén màu xanh được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý không, loại chất ma tuý, tiền chất, khối lượng bao nhiêu.

Tại Bản kết luận giám định số 58/GĐ ngày 08 tháng 2 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

1. 06 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu hồng có tổng khối lượng là 0,6525 gam, là ma túy, loại Methamphetamine. (của Thọ) 2. 05 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu hồng có tổng khối lượng là 0,5386 gam, là ma túy, loại Methamphetamine. (của Phú) 3. 02 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng có tổng khối lượng là 0,2051 gam, là ma túy, loại Methamphetamine. (của Thọ) 4. 01 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ được đựng trong 01 túi ni lon màu trắng có tổng khối lượng là 0,1017 gam, là ma túy, loại Methamphetamine. (của Thọ) 5. Không phát hiện các chất ma túy Methamphetamine, MDMA, Morphine, Ketamine, DOB, TFMPP, Delta 9 - THC (cần sa) trong viên nén màu xanh không ghi rõ hình dạng gửi giám định, Khối lượng viên nén màu xanh gửi giám định là 0,4980 gam”. (của Phú) Ngày 26 tháng 2 năm 2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung, trưng cầu Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng xác định: 0,1980 gam mẫu chất bột được nghiền từ 01 viên nén màu xanh có phải là chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý không, loại chất ma tuý, tiền chất, khối lượng bao nhiêu.

Tại Bản kết luận giám định số 245/C09C-Đ2 ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận:

Trong mẫu chất rắn màu xanh (dạng bột) trong niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Amphetamin.” Vật chứng hiện còn tạm giữ:

- 01 gói giấy trắng bên trong có chứa 0,4525 gam mẫu bột được nghiền từ 06 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; 0,3386 gam mẫu bột được nghiền từ 05 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; Các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định (đã được niêm phong).

- 01 áo rin màu xanh tay dài, 01 gói thuốc lá màu vàng có hình con ngựa trắng và dòng chữ WHITE HOURSE, bên trong có 10 điều thuốc (đã được niêm phong).

- 01 khẩu trang vải, mặt ngoài có màu vàng nhạt ca rô trắng, đỏ, đen. Mặt trong có màu vàng nhạt, phía bên phải gần tai đeo có vết rách dài 3 cm (đã được niêm phong).

- 01 hộp nhựa (loại hộp đựng kính đeo mắt) màu vàng nhạt, kẻ ca rô màu xám, bên trong có lớp nhựa màu đỏ có kích thước 16 cmx06x05cm (đã được niêm phong).

Đi với 01 kính đeo mắt, có mắt kính màu đen, gọng kính màu đen vàng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Lê Đức T.

Tại cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà đã truy tố các bị cáo Nguyễn Nhật P, Lê Đức T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Lê Đức T theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Nguyễn Nhật P theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Bị cáo Lê Đức T từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 05/02/2021.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Nhật P từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 04/02/2021.

Về xử lý vật chứng, đề nghị: Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 gói giấy trắng bên trong có chứa 0,4525 gam mẫu bột được nghiền từ 06 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; 0,3386 gam mẫu bột được nghiền từ 05 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; Các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định (đã được niêm phong).

- 01 áo rin màu xanh tay dài, 01 gói thuốc lá màu vàng có hình con ngựa trắng và dòng chữ WHITE HOURSE, bên trong có 10 điều thuốc (đã được niêm phong).

- 01 khẩu trang vải, mặt ngoài có màu vàng nhạt ca rô trắng, đỏ, đen. Mặt trong có màu vàng nhạt, phía bên phải gần tai đeo có vết rách dài 3 cm (đã được niêm phong).

- 01 hộp nhựa (loại hộp đựng kính đeo mắt) màu vàng nhạt, kẻ ca rô màu xám, bên trong có lớp nhựa màu đỏ có kích thước 16 cmx06x05cm (đã được niêm phong).

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Nguyễn Nhật P, Lê Đức T thừa nhận hành vi đã thực hiện như cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hương Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; lời khai của người làm chứng; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số 58/GĐ ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế; Kết luận giám định số 245/C09C-Đ2 ngày 15 tháng 3 năm 2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại phòng trọ của Lê Đức T ở TDP Giáp Trung, phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, Nguyễn Nhật P đã có hành vi tàng trữ trái phép ma tuý loại Methamphetamine (05 viên nén có hình trụ tròn màu đỏ có tổng khối lượng là 0,5386 gam) và Amphetamin (01 viên nén màu xanh không ghi rõ hình dạng có khối lượng là 0,4980 gam),; có tổng trọng lượng là 1,0366 gam và Lê Đức T có hành vi tàng trữ trái phép 09 viên ma tuý loại Methamphetamine có tổng trọng lượng là 0,9593 gam để sử dụng.

Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, Nguyễn Nhật P và Lê Đức T thực hiện hành vi độc lập với nhau, Lê Đức T không biết Phú tàng trữ số ma túy trên và Nguyễn Nhật P cũng không biết Thọ cất giấu số ma túy tại phòng trọ của mình để sử dụng. Vì vậy, Nguyễn Nhật P và Lê Đức T chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với khối lượng ma túy mà mình đã tàng trữ.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Lê Đức T và Nguyễn Nhật P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Lê Đức T đã phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, Nguyễn Nhật P đã phạm vào điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 06/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố các bị cáo Lê Đức T, Nguyễn Nhật P về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Nhật P không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Lê Đức T phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo Lê Đức T, Nguyễn Nhật P thành khẩn khai báo nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như nhân thân của các bị cáo, thấy rằng:

Các bị cáo Lê Đức T và Nguyễn Nhật P đều có nhân thân xấu.

Bị cáo Lê Đức T đã 02 lần bị Tòa án xử phạt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Lê Đức T còn 01 tiền án chưa được xóa án tích (theo bản án số 210/2018/HS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Huế).

Bị cáo Nguyễn Nhật P bị Công an phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 300.000 đồng vào ngày 13/6/2018 vì có hành vi gây mất trật tự công cộng.

Các bị cáo đã nhiều lần được giáo dục, cải tạo, song không lấy đó làm bài học để sửa chữa, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội mà lại phạm tội. Hành vi của các bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng: Xét thấy các vật chứng hiện còn tạm giữ, thì:

Đi với: 01 gói giấy trắng bên trong có chứa 0,4525 gam mẫu bột được nghiền từ 06 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; 0,3386 gam mẫu bột được nghiền từ 05 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; Các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định (đã được niêm phong). Đây là chất độc hại, nên tịch thu tiêu hủy.

Đi với: 01 áo rin màu xanh tay dài, 01 gói thuốc lá màu vàng có hình con ngựa trắng và dòng chữ WHITE HOURSE, bên trong có 10 điều thuốc (đã được niêm phong); 01 khẩu trang vải, mặt ngoài có màu vàng nhạt ca rô trắng, đỏ, đen. Mặt trong có màu vàng nhạt, phía bên phải gần tai đeo có vết rách dài 3 cm (đã được niêm phong); 01 hộp nhựa (loại hộp đựng kính đeo mắt) màu vàng nhạt, kẻ ca rô màu xám, bên trong có lớp nhựa màu đỏ có kích thước 16 cmx06x05cm (đã được niêm phong). Đây là những vật dụng các bị cáo dùng để chứa đựng ma túy, nên tịch thu tiêu hủy.

(Các vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hương Trà) [6] Về án phí: Các bị cáo Lê Đức T, Nguyễn Nhật P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lê Đức T, Nguyễn Nhật P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Bị cáo Lê Đức T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 05/02/2021.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Nhật P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam là ngày 04/02/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 gói giấy trắng bên trong có chứa 0,4525 gam mẫu bột được nghiền từ 06 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; 0,3386 gam mẫu bột được nghiền từ 05 viên nén hình trụ tròn màu đỏ được đựng 01 túi ni lon; Các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định (đã được niêm phong).

- 01 áo rin màu xanh tay dài, 01 gói thuốc lá màu vàng có hình con ngựa trắng và dòng chữ WHITE HOURSE, bên trong có 10 điều thuốc (đã được niêm phong).

- 01 khẩu trang vải, mặt ngoài có màu vàng nhạt ca rô trắng, đỏ, đen. Mặt trong có màu vàng nhạt, phía bên phải gần tai đeo có vết rách dài 3 cm (đã được niêm phong).

- 01 hộp nhựa (loại hộp đựng kính đeo mắt) màu vàng nhạt, kẻ ca rô màu xám, bên trong có lớp nhựa màu đỏ có kích thước 16 cmx06x05cm (đã được niêm phong).

(Các vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hương Trà) 4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc Lê Đức T, Nguyễn Nhật P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2021/HS-ST

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về