Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BN ÁN 106/2020/HSST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 113/2020/HSST, ngày 06/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/HSST ngày 13/10/2020, đối với các bị cáo:

1. Trần Chí Kh (tên gọi khác: Tý), sinh năm: 1998; nơi sinh: tỉnh Khánh Hòa;

nơi ĐKNKTT: thôn X. Đ, xã D. X, huyện D, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở hiện nay: thôn L.S 2, xã C. N, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt nam; con ông: không rõ và bà Trần Thị L; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt ngày 23/6/2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Tuy Phong và có mặt tại phiên tòa.

2. Hà Tiên Kh1, sinh năm: 2000; tại: tỉnh Ninh Thuận; nơi ĐKNKTT và chỗ ở:

thôn L. T 2, xã Ph. D, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: làm biển; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt nam; con ông Hà C và bà Nguyễn Thị B; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; quá trình hoạt động của bản thân: ngày 06/7/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 9 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/4/2019 (đã được xóa án tích vì lúc phạm tội Kh1 dưới 18 tuổi); bị cáo bị bắt ngày 23/6/2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Tuy Phong và có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyn Thị B, sinh năm 1969; địa chỉ: thôn L. T 2, xã Ph. D, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt)

- Người làm chứng: Phan C, sinh năm 1967; địa chỉ: thôn L. T 2, xã Ph. D, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắc như sau:

Khong 21 giờ 30 phút ngày 22/6/2020 Trần Chí Kh, sinh năm 1998 trú tại thôn L. S 2, xã C. N, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận và Hà Tiên Kh1, sinh ngày 19/6/2000 trú tại thôn L. T 2, xã Ph. D, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận cùng nhậu rượu tại xã C. N, huyện Th. N, tỉnh Ninh Thuận. Trong lúc nhậu Kh và Kh1 bàn bạc với nhau góp tiền mua ma túy về sử dụng chung, Kh góp 200.000 đồng, Kh1 góp 100.000 đồng số tiền này do Kh1 cất giữ. Kh đưa điện thoại di động hiệu Samsung cho Kh1 liên lạc với người phụ nữ tên Thảo (không rõ lai lịch) ở xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì Thảo đồng ý hẹn gặp nhau tại trước cây xăng Quốc lộ 1A trên địa bàn xã Vĩnh Hảo để nhận ma túy. Kh điều khiển xe mô tô biển số 85V4- 0184 của Kh1 chở Kh1 từ xã Ph. D vào đến trước khu vực cây xăng xã Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong thì Kh1 tiếp tục lấy điện thoại của Kh gọi cho người tên Thảo biết địa điểm để giao ma túy. Khoảng 15 phút sau có một người thanh niên đeo khẩu trang điều khiển xe mô tô đến giao cho Kh1 01 gói ma túy đá, Kh1 đưa cho người thanh niên 300.000 đồng. Kh điều khiển xe mô tô chở Kh1 về đến khu vực dốc dù, thôn Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong lúc khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng công an xã Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong tuần tra đến yêu cầu Kh dừng xe để kiểm tra. Kh1 liền lấy gói ma túy đá cất giấu trong người cùng bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thả xuống đất gần chân của Kh1 thì bị lực lượng Công an xã Vĩnh Tân phát hiện bắt quả tang. Thu giữ dưới đất bên phải xe mô tô biển số 85V4-0184 nơi Kh và Kh1 đứng 01 gói nylon được hàn kín kích thước 1 x 5cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, Kh và Kh1 khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy đá do Kh và Kh1 cùng nhau hùn tiền lại mua về để cùng sử dụng chung; thu giữ trên người của Kh1 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen và 01 xe mô tô hiệu Yamaha màu đen biển số 85V4 0184.

Tại bản kết luận giám định số 683/KLGĐ-PC09 ngày 30/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2284 gam là Methaphetamine.

Lời khai của các bị can Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các tang vật chứng và kết qủa giám định chất ma tuý, đủ chứng cứ xác định: Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 đang tàng trữ 0,2284 gam là Methaphetamine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang Bản cáo trạng số: 113/QĐ/KSĐT/VKS/HS, ngày 06/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, đã truy tố các bị cáo Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)

Ti phiên tòa Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận vẫn giữ nguyên cáo trạng;

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Chí Kh, Hà Tiên Kh1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) - Đề nghị: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: bị cáo Trần Chí Kh từ 12 đến 15 tháng tù và Hà Tiên Kh1 từ 15 đến 18 tháng tù.

Đề nghị: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon và 0,1045 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 683, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận vì đây là vật cấm lưu hành và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá vì không có giá trị sử dụng.

- Sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Samsung thu giữ của bị cáo Trần Chí Kh vì đây là vật dùng vào việc phạm tội.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển số 85V4–0184 chứng minh được chủ sở hữu là Nguyễn Thị B (là mẹ ruột của Kh1), bà B không biết Kh1 sử dụng để đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Tuy Phong đã trao trả lại cho Nguyễn Thị B.

Li nói sau cùng của các bị cáo:

- Các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, Kiểm sát viên:

Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó có cơ sở khẳng định các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo và chứng cứ chứng minh:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Các bị cáo khẳng định những lời khai của mình trong quá trình điều tra vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không bị bức cung, ép cung và cáo trạng truy tố là hoàn toàn đúng, không oan. Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả giám định chất ma tuý và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ chứng cứ xác định: khoảng 22 giờ 30 phút ngày 22/6/2020 Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 đang tàng trữ 0,2284 gam là Methaphetamine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang Vì vậy, bản cáo trạng số: 118/CT/VKSTP ngày 06/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong, truy tố các bị cáo Trần Chí Kh, Hà Tiên Kh1, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như đã viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và mức hình phạt:

Ma tuý, là loại độc dược là chất gây nghiện mà Nhà nước đã nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, các căn bệnh thế kỹ, làm lây truyền vi rút gây bệnh khó chữa, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, thế nhưng các bị cáo đã coi thường pháp luật, bất chấp hậu quả, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý về ma túy của Nhà nước, nên cần phải xử lý các bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để có đủ thời gian các bị cáo cai nghiện và cải tạo bản thân trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội đồng thời để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật hình sự Việt Nam.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa, các bị cáo đã “thành khẩn khai báo”, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần xem xét chiếu cố khi xử lý, để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần trong mức hình phạt, để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam.

Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1 cùng thống nhất ý chí hùn tiền lại để cùng mua ma túy cất giấu để sử dụng chung nên cả hai phải chịu trách nhiệm chung về hậu quả xảy ra. Đối với bị cáo Hà Tiên Kh1 có quá trình hoạt động nhân thân không tốt nên áp dụng mức án cao hơn Trần Chí Kh là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen của Trần Chí Kh nên tịch thu sung quỹ nhà nước vì đây là vật dụng dùng trong việc phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon và 0,1045 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 683, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung Hiếu và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận vì đây là vật cấm lưu hành và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá vì không có giá trị sử dụng.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển số 85V4–0184 chứng minh được chủ sở hữu là Nguyễn Thị B (là mẹ ruột của Kh1), bà B không biết Kh1 sử dụng để đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Tuy Phong đã trao trả lại cho Nguyễn Thị B.

[6] Về đối tượng có liên quan:

- Đối với người phụ nữ tên Thảo và thanh niên đeo khẩu trang đã bán ma túy đá cho Trần Chí Kh và Hà Tiên Kh1, do không rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ. [7] Về án phí:

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của pháp luật.

[8] Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ, nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38, khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) - Tuyên bố: bị cáo Trần Chí Kh, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Xử phạt: bị cáo Trần Chí Kh 12 (mười hai) tháng tù; thời gian ở tù tính từ ngày bị bắt (ngày 23/6/2020)

2. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, khoản 1 Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) - Tuyên bố: bị cáo Hà Tiên Kh1, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Xử phạt: bị cáo Hà Tiên Kh1 15 (mười lăm) tháng tù; thời gian ở tù tính từ ngày bị bắt (ngày 23/6/2020)

3. Phần xử lý tang vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 1 điện thoại di động Samsung thu giữ của Trần Chí Kh - Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon và 0,1045 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 683, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

(Vật chứng được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2020 giữa Công an huyện Tuy Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong).

4. Về án phí: áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo, mỗi người phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/10/2020).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 106/2020/HSST

Số hiệu:106/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về