Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 268/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 268/2021/HS-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 09 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 269/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 08 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 272/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn S. Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1975 Tại: Điện Biên Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã Thanh X, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Hồng Th (đã chết) và con bà: Trần Thị L; vợ: Lò Thị H (đã chết), bị cáo có 01 người con sinh năm 1995; tiền án; tiền sự: Không; Nhân thân: chưa bị xử lý hành chính; chưa bị kết án. Bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 01/6/2021 đến ngày xét xử. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 07 giờ ngày 01/06/2021, Phạm Văn S đi bộ từ nhà đến khu vực bản Na Ngum, xã Thanh Yên, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên để tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, S gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (S không biết tên và địa chỉ) 01 gói Methamphetamine trong có 40 viên và 01 gói bên trong có 03 gói nhỏ Heroine với giá 4.500.000 đồng. Mua bán xong, S cất số ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc đi bộ về nhà. Khi về đến nhà, S mở gói Methamphetamine lấy 04 viên, S đã sử dụng hết 01 viên còn 03 viên gói lại bằng nilon màu trắng, miệng gói xoắn lại và lấy 01 gói Heroine ra cấu một ít gói lại bằng mảnh nilon màu trắng, tiếp đến là tờ giấy lịch trắng xanh rồi cho các gói trên vào bên trong một lọ nhựa màu trắng có nắp đậy và cất vào túi quần bên trái đang mặc. Gói chứa 36 viên Methamphetamine và 03 gói Heroine còn lại S gói lại như cũ cất vào bên trong ống thanh sắt giá treo ti vi ở trong nhà. Hồi 09 giờ 45 phút cùng ngày, khi S đang đứng tại bếp trong nhà thì bị tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Thanh Xương làm nhiệm vụ vào kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần trái S đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, mở bên trong 01 gói chứa 03 viên Methamphetamine và 01 gói Heroine.

Hi 11 giờ 05 phút cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của S. Qua khám xét phát hiện và thu giữ tại trong ống thanh sắt giá treo ti vi nhà S 01 gói chứa 36 viên Methamphetamine và 03 gói Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 01/06/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và bản Kết luận giám định số 602/GĐ-PC09 ngày 13/06/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định. Số vật chứng thu giữ của Phạm Văn S khi bắt quả tang gồm: Số cục bột màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,41 gam; Các viên nén màu hồng có khối lượng thu giữ 0,37 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Số vật chứng thu giữ của Phạm Văn S khi khám xét khẩn cấp gồm: Số cục bột màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 11,3 gam. Các viên nén màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 3,38 gam.

Tại bản Cáo trạng số 216/CT-VKSĐB ngày 19/08/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm n khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 3,65 gam Methamphetamine (Đã trích 0,37 gam gửi giám định không hoàn lại) và 11,71 gam Heroine (Đã trích 0,31 gam gửi giám định không hoàn lại); tịch thu tiêu hủy 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu trắng. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 09 giờ 45 phút ngày 01/06/2021, tại nơi ở của bị cáo Phạm Văn S, Thôn C9, xã Thanh Xương, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã Thanh Xương làm nhiệm vụ vào kiểm tra, phát hiện, thu giữ tại túi quần trái S đang mặc 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, mở bên trong có 01 gói chứa 03 viên nghi Methamphetamine và 01 gói nghi Heroine. Qua khám xét phát hiện và thu giữ trong ống thanh sắt giá treo ti vi tại nhà bị cáo 01 gói chứa 36 viên nghi Methamphetamine và 01 gói nghi Heroine. Qua cân xác định khối lượng và Kết luận giám định đã xác định, vật chứng thu giữ của bị cáo là 02 chất ma túy gồm 3,65 gam Methamphetamine và 11,71 gam Heroine. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông bị cáo không biết tên và địa chỉ với mục đích chỉ để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo có hành vi tàng trữ 02 chất ma túy gồm 3,65 gam Methamphetamine và 11,71 gam Heroine. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự thì 02 chất ma túy bị cáo tàng trữ đều được quy định trong cùng điểm g khoản 2 Điều 249/BLHS, cộng tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 15,36 gam, mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249/BLHS.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, bản thân học hết lớp 8 thì nghỉ học.

Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bố, mẹ đẻ của bị cáo đều có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và được Chủ tịch nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Bị cáo còn có chú ruột là Phạm Văn Sơn là liệt sĩ đã hi sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.

[4] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy, mặc dù bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ lớn nên cần phải áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo là hình phạt tù có thời hạn để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, sống chung cùng bố mẹ, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã xuất trình những chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Vật chứng:

[7.1] Gồm 3,65 gam Methamphetamine (Đã trích 0,37 gam gửi giám định không hoàn lại) và 11,71 gam Heroine (Đã trích 0,31 gam gửi giám định không hoàn lại) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[7.2] Đối với 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu trắng, bị cáo đã dùng để cất giấu ma túy nhưng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS và Điểm c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về vấn đề khác: Trong quá trình điều tra bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm n Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 06 (S) năm 06 (S) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (Ngày 01/6/2021).

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 3,65 gam Methamphetamine (Đã trích 0,37 gam gửi giám định không hoàn lại) và 11,71 gam Heroine (Đã trích 0,31 gam gửi giám định không hoàn lại) - Tịch thu tiêu huỷ 01 lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu trắng Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 20/08/2021.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/09/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 268/2021/HS-ST

Số hiệu:268/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về