Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy sô 266/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐI, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 266/2021/HSST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09/9/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 264/2021/HSST ngày 17/8/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 270/2021/QĐXXST-HS ngày 26/8/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Th. Tên gọi khác: Không. Giới Tính: Nam.

Sinh năm 1967. Tại tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản P, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: 7/10.

Con ông: Lò Văn Đ, sinh năm 1937. Con bà: Vì Thị P, sinh năm 1942. Bị cáo có vợ: Lò Thị P, sinh năm 1971. Tiền án; Tiền sự: Không: Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/6/2021 có mặt tại phiên tòa.

2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lò Thị T, sinh năm 1990

Địa chỉ: Bản P, xã Thanh N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. (có mặt)

3. Bà Cà Thị L, sinh năm 1978: Địa chỉ: Bản N, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 16/6/2021, Lò Văn Th điều khiển xe moto biển kiểm soát 27Z1-102.71 từ nhà ở bản P xã T, huyện Đ đến nhà Cà Thị L sinh năm 1978, trú tại bản N, xã T mục đích tìm mua heroine để sử dụng cho bản thân. Tại nhà L, T đã mua được của L01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 760.000đ. Sau khi mua được ma túy Th cất vào túi quần bên phải đang mặc và điều khiển xe moto đi về nhà, khi Th đi đến khu vực bản P, xã T, huyện Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói heroine và chiếc xe moto biển kiểm soát 27Z1-102.71.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 16/6/2021 đã xác định: Toàn bộ số cục bột màu trắng nghi heroine thu giữ của bị cáo Lò Văn Th có khối lượng là 1,59 gam, trích 0,05 gam gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 703/GĐ-PC09 ngày 24/6/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn Th gửi giám định là chất ma túy loại heroine. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại bản cáo trạng số 211/CT-VKSĐB ngày 16/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lò Văn Th từ 24 tháng đến 27 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2; Điểm b Khoản 3 Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết 326 bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Lò Văn Th là đối tượng nghiện chất ma túy bị cáo đã điều khiển xe moto biển kiểm soát 27Z1-102.71 từ nhà ở bản P xã T, huyện Đ đến nhà Cà Thị L sinh năm 1978, trú tại bản N, xã T mục đích tìm mua heroine để sử dụng cho bản thân. Tại nhà L, T đã mua được của L01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 760.000đ. Sau khi mua được ma túy Th cất vào túi quần bên phải đang mặc và điều khiển xe moto đi về nhà, khi Th đi đến khu vực bản P, xã T, huyện Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói heroine và chiếc xe moto biển kiểm soát 27Z1-102.71.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 1,59 gam, kết luận giám định là heroine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 1,59gam heroine mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:

Sinh ra và lớn lên tại xã T, huyện Đ, bản thân học hết lớp 7/10. Năm 1987 kết hôn với Lò Thị P năm 1988 sử dụng ma túy. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015.

HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy. Xét đề nghị của VKS là phù hợp HĐXX chấp nhận.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma túy. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Nguồn gốc số heroine theo bị cáo khai đã mua của Cà Thị L sinh năm 1978 tại bản N xã T, huyện Đ. Quá trình điều tra, thu thập tài liệu chứng cứ không đủ cơ sở kết luận Cà Thị L có liên quan đến vụ án cho nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2; Điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu hủy 1,59 gam heroine đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại.

Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát 27Z1-102,71 đăng ký mang tên Quàng Văn T, là xe của chị Lò Thị T mua lại của anh T có giấy tờ mua bán xe. Chị Th để xe ở gầm sàn nhà bị cáo (là bố đẻ chị T), bị cáo đem xe đi và đã dùng làm phương tiện phạm tội.

Song chị T không biết việc T đem đi mua ma túy, đây là tài sản hợp pháp của chị T nên HĐXX cần trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là Lò Thị T. Các bản khai chị T cũng thừa nhận xe mua lại của anh T với giá 16.000.000đ. HĐXX chấp nhận.

[8]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/ Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 16/6/2021)

3. Vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 và khoản 2 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 ; Điểm b khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 1,59 gam heroine đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 16/8/2021).

Trả lại cho chi Lò Thị T, sinh năm 1990. Trú tại bản P, xã T, huyện Đ 01 chiếc xe môtô biển kiểm soát 27Z1-102, nhãn hiệu YAMAHA. Loại xe SIRIUS. Màu sơn: Trắng - Đen. Số khung: RLCS5C6KOEY143910. số máy: 5C6K-143925. Xe cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 16/ 8/2021).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn T phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 09/9/2021).

Chị T có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 09/9/2021).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể ngày nhận được bản án chính hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy sô 266/2021/HSST

Số hiệu:266/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về