Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 20/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2023/TLHS-HS ngày 22 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Hoàng Thị H; vợ: Trần Thị Tr; con: Có 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07/3/2013 Chủ tịch UBND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra Quyết định đưa người nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng; ngày 18/6/2016, Công an thành phố Phủ Lý xử phạt vi phạm hành chính, phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Cất giữ trái phép chất ma túy”; ngày 21/6/2016, Công an thành phố Phủ Lý xử phạt vi phạm hành chính, phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Cất giữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ từ ngày 15 tháng 12 năm 2022, chuyển tạm giam từ ngày 21 tháng 12 năm 2022 đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Anh Phan Hồng H, sinh năm 1980; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 15/12/2022, Nguyễn Văn T đang đi bộ trên Quốc lộ 1A thuộc xã T, huyện T thì gặp 02 người đàn ông (không biết tên tuổi, địa chỉ) đi xe mô tô, sau khi nói chuyện thì 02 người này rủ T đi mua ma túy về sử dụng, T đồng ý lên xe mô tô đi cùng 02 người đàn ông trên đến ngã tư đường Lê Lợi giao với đường Biên Hòa thuộc tổ 9, phường L, thành phố P, người đàn ông ngồi sau đưa cho T 300.000 đồng để mua ma túy và xuống xe. Sau đó, người đàn ông điều khiển xe mô tô chở T đến ngõ 225 đường Lê Lợi thì gặp 01 người đàn ông không quen biết, T đưa 300.000 đồng cho người này, người này cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, biết bên trong có ma túy nên không mở ra kiểm tra mà cầm trong lòng bàn tay rồi lên xe đi. Khi cả hai đi đến đầu ngõ 225 đường Lê Lợi, thuộc tổ 9, phường L, thành phố P thì gặp tổ công tác Công an phường L, thành phố P trên đường đi làm nhiệm vụ thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Lợi dụng sơ hở, người đàn ông điều khiển xe mô tô tăng ga bỏ chạy, T bị bắt giữ và tự giác giao nộp cho lực lượng Công an vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục, tại chỗ T khai là ma túy cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Cùng ngày Công an phường L, thành phố P đã bàn giao hồ sơ và đối tượng Nguyễn Văn T, vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 16/12/2022, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T tại thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 727/KL-KTHS ngày 19/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,249g, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS-PL ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Văn T theo nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX):

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 15/12/2022, tại khu vực tổ 9, phường L, thành phố P, Nguyễn Văn T đang cất giấu trái phép 01 gói ma túy, khối lượng 0,249 gam, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường L, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với Nguyễn Văn T là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc và 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cất giữ trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có công với cách mạng, có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba, Huy chương kháng chiến hạng nhất; mẹ đẻ được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba; bố mẹ đẻ đều là thanh niên xung phong, bị thương tật và được hưởng chính sách như thương binh nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật khác. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy loại: Heroine được niêm phong trong phong bì số 727/KTHS là vật cấm tàng trữ, lưu hành; đối với 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Các tình tiết khác của vụ án:

- Đối với 02 người đàn ông rủ T đi mua ma túy và đưa T số tiền 300.000 đồng để mua ma túy, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ của những người này. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã T, huyện T xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của 02 người ngày. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

- Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn T: Bị cáo khai đã mua số ma túy trên của một người đàn ông không quen biết ở ngõ 225 đường Lê Lợi, tổ 9, phường L, thành phố P với giá 300.000 đồng. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường L xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người này. Ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, các Điều 38, 47, 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 15 tháng 12 năm 2022).

3/ Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mặt trước ghi “Mẫu vật hoàn trả QT01” số 727/KTHS và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2023 giữa Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về