Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TD, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 24/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2023, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

Phùng Văn H, sinh ngày 10/12/1973; nơi sinh: Xã ĐT, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn LH, xã ĐT, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Đình B, sinh năm 1944 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1944; vợ là Phùng Thị Th, sinh năm 1976 và 03 con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 02 năm 2023 cho đến nay (có mặt).

- Người chứng kiến: Ông Hà Văn Đ, sinh năm 1975.

Nơi cư trú: Thôn 11, xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phùng Văn H là đối tượng nghiện chất ma túy từ năm 2017 cho đến ngày bị bắt giữ. H là công nhân của Công ty SUNHUA có địa chỉ tại phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 03/02/2023, sau khi tan ca tại Công ty SUNHUA, H đi bộ ra khu vực cách cổng Công ty khoảng 500m gặp và mua 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) bên ngoài được bọc bằng giấy vở học sinh màu trắng, có dòng kẻ ngang của một người đàn ông không rõ tên, địa chỉ với số tiền 300.000đồng để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi đi bộ ra bến xe buýt bắt xe về nhà. Khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, H về đến khu vực cây xăng thuộc xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc đã thu giữ tại túi quần phía trước bên trái đang mặc của H 01 gói nhỏ ma túy (Heroine), bên ngoài bọc giấy vở học sinh màu trắng, có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột cục màu trắng. H khai nhận chất bột cục màu trắng này là ma túy của H; thu giữ 01 điện thoại di động mặt sau màu xanh có chữ OPPO của H đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 253/KL-KTHS ngày 07 tháng 02 năm 2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2279g (không phảy hai hai bảy chín gam), không kể bao bì, loại Heroine.

Người chứng kiến ông Hà Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra đã khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKSTD ngày 02/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Phùng Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phùng Văn H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 03 tháng 02 năm 2023; về hình phạt bổ sung: Xét thấy trước khi phạm tội bị cáo là công nhân có công việc, thu nhập. Tuy nhiên, sau khi bị cáo bị phát hiện, bắt quả tang, đã bị bắt tạm giam. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn trả sau giám định, mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1703gam cùng toàn bộ bao gói được niêm phong; trả lại cho H 01 điện thoại di động, mặt sau màu xanh có chữ OPPO đã cũ qua sử dụng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Bị cáo Phùng Văn H không bào chữa, không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo Phùng Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Phùng Văn H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ chứng cứ khách quan để kết luận:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/02/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện, bắt quả tang Phùng Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nhỏ ma tuý (heroine) để sử dụng cho bản thân, theo kết luận giám định có khối lượng 0,2279 gam. Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái đang mặc của H 01 gói nhỏ ma túy (Heroine) và niêm phong theo quy định; 01 điện thoại di động, mặt sau màu xanh có chữ OPPO.

Hành vi của bị cáo Phùng Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, từ tội phạm về ma tuý sẽ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần pH xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Phùng Văn H không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hội đồng xét xử xét thấy cần pH lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[5]. Đối với người nam giới theo Phùng Văn H khai là người đã bán ma túy cho H. Tuy nhiên, H không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1703gam Heroine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Đối với 01 điện thoại di động, mặt sau màu xanh có chữ OPPO, đã cũ qua sử dụng, quá trình điều tra xác định là của H, không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho H nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[7]. Về án phí: Bị cáo Phùng Văn H pH chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Phùng Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 03/02/2023).

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy bao gói niêm phong mẫu vật ghi “MẪU TRẢ” ký hiệu A1 = 0,1703gam Heroine còn lại sau giám định.

Trả lại cho Phùng Văn H 01 điện thoại di động, mặt sau màu xanh có chữ OPPO, đã cũ qua sử dụng nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/3/2023).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Phùng Văn H pH nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Dương - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về