TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 30/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30/8/2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Thanh Hoá và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ - Công an huyện S, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 13/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2023/QĐXXST-HS ngày 16/8/2023 đối với bị cáo:
Vũ Đình K, sinh ngày 18 tháng 7 năm 1990; tại: xã Nga Vịnh, huyện S, tỉnh T; nơi cư trú: Thôn An Thọ, xã Nga Vịnh, huyện S, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Thế V, sinh năm 1958 và bà Lê Thị T, sinh năm 1965; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/4/2023 đến ngày 22/4/2023; sau đó chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện S (có mặt);
* Người chứng kiến: Anh Lê Văn N - Sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn An Thọ, xã Nga Vịnh, huyện S, tỉnh T (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau: khoảng 10 giờ 15 phút ngày 19/4/2023, tại khu vực thôn An Thọ, xã Nga Vịnh tổ công tác Công an xã Nga Vịnh phối hợp cùng Công an huyện S làm nhiệm vụ tiến hành kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Vũ Đình K, sinh ngày 18/7/1990 có hành vi tàng trữ 01 túi nilon màu đen, bên trong chứa chất màu trắng dạng cục nghi là ma túy, K khai nhận chất màu trắng dạng cục là ma túy mang theo mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, lập biên bản bắt người phạm tội qua tang và tiến hành niêm phong tang vật theo quy định.
Tang vật thu giữ tại thời điểm bắt qủa tang gồm: 01 túi nilon màu đen, bên trong chứa chất màu trắng dạng cục; 01 điện thoại di động, loại cảm ứng, nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng, gắn sim số 096.2430.xxx, đã qua sử dụng.
Ngày 19/4/2023, Cơ quan cảnh CSĐT Công an huyện S quyết định trưng cầu giám định số 22/QĐ-CSĐT, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T giám định: Chất màu trắng, dạng cục bên trong 01 túi nilon đen gửi giám định có phải là ma túy không? Nếu là ma túy thì loại ma túy gì? có khối lượng là bao nhiêu? Tại kết luận giám định số 1540/KL-KTHS ngày 21/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T, kết luận: Chất màu trắng dạng cục của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,429g (không phấy bốn hai chín gam) loại heroine.
Số ma túy K có được, quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận ngày 18/4/2023, K bắt xe đi từ thôn Vĩnh Lộc, xã Nga Vịnh đến thị xã Bỉm Sơn. Sau đó, K bắt xe khách từ Bỉm Sơn đi Nam Định, mục đích thăm người bạn tên K1. Đến khu vực BigC, thành phố Nam Định, K xuống xe đi vào phòng trọ của K1, gặp nhau, nói chuyện và ngủ lại phòng trọ cùng K1. Khoảng 7 giờ ngày 19/4/2023, K1 chở K ra khu vực BigC, thành phố Nam Định để bắt xe về quê rồi đi làm. Khi ngồi uống nước K tình cờ gặp người đàn ông làm nghề lái xe ôm (có quen biết trước đó) nhưng không rõ tên, tuổi, địa chỉ. Quá trình nói chuyện, biết K trước đây đã từng sử dụng ma túy nên người đàn ông này nói với K về việc ông đi chở khách và được người khách cho 01 túi nilon màu đen, bên trong có ma túy. Do không có nhu cầu sử dụng nên người đàn ông này lấy số ma túy đó kỷ niệm cho K, K mang về để sử dụng. Nhận được ma túy, K cất giấu vào bên trong túi quần bò bên phải đang mặc trên người, lên xe khách để ra về. Đến khu vực ngã tư Bỉm Sơn, K xuống xe và tiếp tục đón xe taxi về xã Nga Vịnh, K đi bộ về nhà thì bị tổ công tác kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.
Đối với người đàn ông làm nghề lái xe ôm cho K ma túy, K khai tại cơ quan điều tra chỉ quen biết người này cao 1m70, khoảng 45 tuổi, mặc áo phông đen, điều khiển xe nhãn hiệu Wave, màu đỏ, nhưng không có thông tin về tên, tuổi, địa chỉ, Cơ quan điều tra truy tìm nhưng không kết quả để xử lý theo quy định.
Đối với điện thoại di động, nhãn hiệu Sam sung màu vàng đồng, găn sim số 0962.430.xxx là của bà Lê Thị T (mẹ đẻ) bị cáo. Bà T cho K mượn để làm phương tiện liên lạc khi đi làm. Điện thoại này không liên quan đến hành v phạm tội của K nên ngày 16/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã trả lại cho chủ sở hữu, bà T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì.
Số vật chứng còn lại, sau khi trưng cầu giám định được hoàn lại đối tượng gồm: Toàn bộ bao gói mở niêm phong của phong bì ký hiệu M1 và 0,378g (không phẩy ba bảy tám gam) chất màu trắng ngà dạng cục vụn, chất ma túy còn lại sau giám định. Tất cả được đựng trongphong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đều đang được bảo quản chờ xử lý theo quy định.
Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Vũ Đình K theo cáo trạng số 18/CT-VKSNS ngày 12/7/2023 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Đình K từ 15 đến 18 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/4/2023; Hình phạt bổ sung: bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký họ tên Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T. Theo biên bản giao nhận lại đối tượng giám định, bên trong phong bì chứa toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong ký hiệu M1 và 0,378g (không phẩy ba bảy tám gam) chất màu trắng dạng cục, chất ma túy còn lại sau giám định đang được bảo quản chờ xử lý theo quy định.
Bị cáo Vũ Đình K không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đình K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: do quen biết nên vào ngày 19/4/2023, K được người đàn ông cho 01 gói ma túy để làm kỷ niệm, K nhận và mang theo người mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên đường mang ma túy về nhà thì K bị Công an xã Nga Vịnh và Đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội Công an huyện S phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và tang vật đã thu giữ cũng như kết luận giám định xác định đối tượng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,429g (không phẩy bốn hai chín gam). Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Bị cáo nhận biết ma túy là hiểm họa của loài người, làm tiêu tốn tiền của gia đình và bản thân, phá hoại sức khỏe, ảnh hưởng đến phát triển nòi giống, còn là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và là nguyên nhân phát sinh các hành vi phạm pháp khác.
[3] Xét tính chất vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân.
[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Từ những căn cứ nêu trên xét thấy: Cần áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật.
[6] Hình phạt bổ sung: bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy được hoàn lại sau giám định theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện S và cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S lập ngày 18/7/2023.
[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;
* Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt: Bị cáo Vũ Đình K 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (19/4/2023).
* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký họ tên Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn M và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T. Theo biên bản giao nhận lại đối tượng giám định, bên trong phong bì chứa toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong ký hiệu M1 và 0,378g (không phẩy ba bảy tám gam) chất màu trắng dạng cục (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/7/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo Vũ Đình K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2023/HS-ST
Số hiệu: | 19/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về