TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Toà án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La và điểm cầu thành phần nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2023/TLST-HS ngày 22/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2023/QĐXXST-HS ngày 04/12/2023 đối với bị cáo:
Vàng A M (tên gọi khác: không), sinh ngày 05 tháng 12 năm 1986 tại huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản T, xã ST, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Đảng phái, đoàn thể: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vàng A T (Đã chết) và bà Hạng Thị Ch, sinh năm 1944; vợ là Giàng A D, sinh năm 1986 và 03 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: Ngày 09/9/2022 bị UBND xã ST xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/10/2023 cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 05 phút ngày 09/10/2023, tổ công tác Công an thị trấn Phù Yên phối hợp với Công an xã ST, huyện Phù Yên làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, xã ST phát hiện Vàng A M có biển hiện Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì Vàng A M tự giác giao nộp 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng có chữ WY nghi là ma tuý tổng hợp. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng và dẫn giải về cơ quan điều tra làm rõ.
Quá trình điều tra, bị cáo Vàng A M khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 09/10/2023 một mình từ nhà đi bộ xuống bản để bán quả Trẩu trên đường đi thì gặp người đàn ông tên H, khi gặp nhau H đưa cho M số tiền 200.000 đồng bảo đi mua ma tuý tổng hợp về để sử dụng. M cầm tiền và đi bộ theo hướng UBND xã ST để đi mua ma tuý, còn H đứng đợi ở đường. Khi M đi đến cầu bản T, xã ST thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông qua trao đổi đã mua được 03 viên ma tuý tổng hợp được gói bằng nilon màu xanh với giá 200.000 đồng M cất giấu vào túi áo bên trái đang mặc rồi đi bộ quay về. Khi đi đến đầu bản T, xã ST thì bị Tổ Công tác phát hiện, bắt quả tang.
Ngày 09/10/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh số ma túy thu giữ của Vàng A M có khối lượng là 0,293 gam, lấy toàn bộ mẫu gửi giám định ký hiệu là M = 0,293 gam.
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên ra Quyết định trưng cầu giám định số 169/QĐ-ĐCSKT-MT trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy vật chứng của vụ án.
Tại Bản kết luận giám định số 2420/KL-KTHS ngày 12/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
- Mẫu ký hiệu M gửi giám định là ma tuý; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,293 gam.
- Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,293 gam; loại Methanphetamine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Cáo trạng số: 77/CT-VKS ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố Vàng A M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng A M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy về hình phạt đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vàng A M từ 16 tháng đến 22 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01(một) Chiếc phong bì thư đã được niêm phong bên trong có 01 mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì đã bóc mở khi bắt quả tang.
- Về án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo do thuộc hộ nghèo.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra, không có ý kiến gì tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với nội dung bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 10 phút ngày 09/10/2023 tại UBND xã ST, huyện Phù Yên; biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 09/10/2023, bị cáo Vàng A M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,293 gam Methamphetamine, đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nhất là các tệ nạn xã hội.
Xét về nhân thân của bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng nghiện chất ma túy đã bị UBND xã ST xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái pháp chất ma tuý, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, để đảm bảo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự giác giao nộp ma tuý cho tổ công tác được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì riêng có giá trị, không có công việc và thu nhập ổn định, gia đình thuộc hộ nghèo của xã ST, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án: 01 (một) phong bì thư đã được phong, bên trong đựng 01 (một) mảnh nilon màu xanh và 01 vỏ phong bì đã bóc mở khi bắt quả tang. Xét là những vật không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu và tiêu hủy.
[6] Đối với người tên là H đưa tiền cho bị cáo đi mua ma tuý và người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra, xử lý.
[7] Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm do thuộc hộ nghèo. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Vàng A M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/10/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy: 01(một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong bên trong có: 01 (một) mảnh nilon màu xanh và 01 phong bì thư ban đầu khi bắt quả tang đã bóc mở.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A M.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 14/12/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2023/HS-ST
Số hiệu: | 19/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về