Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Phú T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: nam. Sinh ngày: 08/5/1986, tại huyện TD, tỉnh Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản TB, thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; con ông: Nguyễn Phú N, sinh năm 1950; con bà: Nguyễn Thị C, sinh năm 1955; Gia đình bị cáo có 04 anh, chị, em; bị cáo là con thứ tư; có vợ là: Lò Thị D, sinh năm 1991 và 01 con, sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: không.

Về nhân thân: ngày 16/01/2014, Nguyễn Phú T bị Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Lai Châu áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 17/2014/HSST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/01/2016, đã thi hành xong khoản án phí. Hiện bị cáo đã được xóa án tích đối với bản án trên;

Bị cáo bị tạm giữ từ hồi 13 giờ 40 phút ngày 02/12/2022 đến 13 giờ 40 phút ngày 08/12/2022 bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu đến nay “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lò Thị D, sinh năm 1991 – Trú tại: Bản TB, thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu (lý do vắng mặt tại nơi cư trú, có biên bản xác minh ngày 27/02/2023 và biên bản niêm yết ngày 16/3/2023).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo được tóm tắt như sau:

Nguyễn Phú T sinh ngày 08/5/1986, trú tại bản TB, thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu, bị cáo khai bản thân là người nghiện chất ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 02/12/2022, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25B1-X (thuộc sở hữu chung của T và vợ là Lò Thị D) đi từ nhà đến bản Thác Cạn, thị trấn TD, huyện TD, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Tại bản Thác Cạn, bị cáo gặp một người đàn ông không rõ lai lịch. Qua nói chuyện, bị cáo nhờ người đàn ông đó đi mua hộ 01 gói Heroine (được gói bằng mảnh nilon màu hồng) giá 100.000 đồng. Mua được Heroine, bị cáo cất giấu trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Hồi 12 giờ 20 phút ngày 02/12/2022, tại bản Thác Cạn, thị trấn TD, huyện TD, bị cáo bị Công an huyện TD phát hiện, bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. vật chứng thu giữ của T là 01 gói Heroine và 01 xe mô tô biển kiểm soát 25B1-X.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 41 ngày 02/12/2022 của người giám định theo vụ việc kết luận: Số chất bột, màu trắng thu giữ của Nguyễn Phú T có khối lượng là: 0,34 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 912 ngày 05/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 13/CT-VKSTĐ, ngày 16/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD truy tố bị cáo Nguyễn Phú T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TD giữ nguyên quan điểm truy tố của mình đồng thời phân tích, đánh giá toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Phú T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phú T từ 20 tháng đến 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ được tính từ ngày bị cáo đến cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù, bị cáo được khấu trừ 06 ngày tạm giữ. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 0,23 gam Heroine, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe mô tô biển kiểm soát 25B1-X.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Phú T đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định:

Hồi 12 giờ 20 phút ngày 02/12/2022, tại bản Thác Cạn, thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu, Nguyễn Phú T đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,34 gam Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện TD bắt quả tang. Bị can Nguyễn Phú T là người có năng lực trách nhiệm hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Nội dung bản cáo trạng truy tố, căn cứ đề nghị của Viện kiểm sát huyện TD đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Nhà nước ta đang đấu tranh quyết liệt để loại trừ ma túy ra khỏi đời sống xã hội và xử phạt nghiêm khắc đối với những người nào có các hành vi liên quan đến ma túy, bị cáo vì ham chơi đua đòi nên đã mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Xét cần phải có một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Vật chứng:

Đối với: 0,23 gam Heroine, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu hồng đây là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 xe mô tô biển kiểm soát 25B2-X đây là tài sản của bị cáo và bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội cần tịc thu sung quỹ Nhà Nước.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Một số vấn đề liên quan vụ án:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Nguyễn Phú T khai nhờ một người đàn ông không rõ lai lịch đi mua hộ Heroine, do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với Lò Thị D là đồng sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1- X. Quá trình điều tra, Nguyễn Phú T khai tự ý lấy xe mô tô đi mua ma túy và không nói cho D biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Lò Thị D là đúng quy định.

[6] Án phí:

Bị cáo Nguyễn Phú T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Phú T 23 (hai mươi ba) tháng tù.

Được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 02/12/2022 đến ngày 08/12/2022 là 06 (sáu) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 22 (hai mươi hai) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì Công văn do Công an huyện TD phát hành niêm phong lại và dán kín các mép. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng còn lại khối lượng 0,23 gam cùng phong bì niêm phong, mảnh nilon màu hồng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Nguyễn Phú T, sinh năm 1986, trú tại bản TB, thị trấn TD, huyện TD, tỉnh Lai Châu ngày 02/12/2022”. Mặt sau phong bì được dán kín các mép bằng một tờ giấy niêm phong màu trắng dán kín phong bì từ mặt sau ra mặt trước, trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Trần Văn V, Phan Văn H, Đinh Thị H, Vàng Văn N, Nguyễn Phú T. Trên mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TD.

Tịch thu bán hóa giá sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 25B2-X, số khung RLCS5C6J0FY165684, số máy 5C6J-165685.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 35 phút ngày 16/3/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD với Chi cục Thi hành án dân sự huyện TD)

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phú T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về