Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/3/2023 tại điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B, điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh B; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2023/TLST-HS ngày 27/02/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2023/QĐXXST-HS ngày 16/3/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Duy T sinh năm 1993; tại xã Đ, huyện K, tỉnh B; nơi cư trú xóm 5, xã Đ, huyện K, tỉnh B; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12 dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Duy T1 và bà Nguyễn Thị T2; vợ Đỗ Thị L và có 02 con. Tiền án không; tiền sự ngày 23/4/2020 bị Tòa án nhân dân huyện K áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa và cơ sở cai nghiện bắt buộc. Lịch sử bản thân ngày 13/01/2016 bị Công an xã M, huyện K xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 21/01/2016 bị UBND xã M, huyện K áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy tại gia đình; ngày 06/9/2016 bị UBND xã M, huyện K áp dụng biện pháp giáo dục tại xã; ngày 10/02/2017 bị Tòa án nhân dân huyện K áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa và cơ sở cai nghiện bắt buộc; ngày 19/4/2019 bị Công an xã M, huyện K xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 13/11/2019 bị Công an xã M, huyện K xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 10/12/2019 bị UBND xã M, huyện K áp dụng biện pháp giáo dục tại xã; ngày 26/02/2020 bị Công an xã M, huyện K xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 27/02/2020 bị Công an xã M, huyện K xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/11/2022 đến ngày 30/11/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B cho đến nay; có mặt.

Người có quyền, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T2 sinh năm 1958; địa chỉ xóm 5, xã Đ, huyện K, tỉnh B; vắng mặt.

Người làm chứng: - Ông Lê Văn T3 sinh năm 1962; vắng mặt.

- Anh Nguyễn Trung D1 sinh năm 1988; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Duy T là người sử dụng ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 24/11/2022 T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35M1-xxxx đến khu vực ngã tư Quy Hậu, huyện K mua của một người không quen biết 03 gói ma túy với số tiền là 500.000 đồng. T bỏ gói ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về phía huyện Y để tìm nơi sử dụng, trên đường đi T mua 01 bộ kim tiêm và 01 ống nước cất (không xác định được nơi mua) để sử dụng ma túy.

Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày T đi về đến khu vực đường QL10 thuộc địa phận xóm 1, xã K thì T dừng xe đi vào quán nước ven đường. Lúc này tổ công tác của Công an huyện Y đang làm nhiệm vụ thấy T có biểu hiện nghi ngờ, nên tổ công tác đã yêu cầu T xuất trình giấy tờ và giao nộp đồ vật trên người để kiểm tra, nhưng T không chấp hành, tổ công tác đã mời người chứng kiến và kiểm tra người T. Quá trình kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong là chât bột dạng cục màu trắng và trong túi quấn phía sau bên phải 01 ví da màu nâu bên trong có 02 gói nhỏ gồm 01 gói giấy màu trắng và 01 gói giấy màu xanh, bên trong mỗi gói đều có chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận đó là ma túy loại Heroine T mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; thu giữ 03 gói nhỏ bên trong mỗi gói đều có chất bột dạng cục màu trắng niêm phong ký hiệu M, 01 bộ kim tiêm, 01 ống nước cất, 01 ví da màu nâu, 01 xe mô tô Wave biển kiểm soat 35M1-xxxx.

Cơ quan điều tra Công an huyện Y, mở niêm phong gói ký hiệu M thu giữ của T và cân xác định khối lượng: Gói thứ nhất gói bằng giấy màu xanh khối lượng cả bì là 0,34 gam, khối lượng bì là 0,15 gam, khối lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,19 gam, sau đó niêm phong lại ký hiệu M1; gói thứ hai gói bằng giấy màu trắng khối lượng cả bì là 0,16 gam, khối lượng bì là 0,1 gam, khối lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,06 gam, sau đó niêm phong lại ký hiệu M2; gói thứ ba gói bằng giấy bạc màu trắng khối lượng cả bì là 0,39 gam, khối lượng bì là 0,11 gam, khối lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,28 gam, sau đó niêm phong lại ký hiệu M3 và gửi toàn bộ cả 03 mẫu ký hiệu M1, M2, M3 để trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số 834/KL-KTHS-MT ngày 29/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1965 gam, M2 có khối lượng 0,0496 gam, M3 có khối lượng 0,2747 gam; tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong các mẫu ký hiệu M1, M2, M3 là 0,5208 gam đều là ma túy, loại Heroine; Heroine là chất ma túy thuộc danh mục IA, số thứ tự 9 Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 24/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày Luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo T như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/11/2022.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại; 03 mảnh giấy; vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 bộ kim tiêm; 01 lọ nước cất; 01 ví da màu nâu.

Bị cáo T khai: Ngày 24/11/2022 T mua 03 gói ma túy loại Heroine để sử dụng, khi đi đến xóm 1, xã K thì gặp tổ công tác của Công an Y đã kiểm tra và thu giữ toàn bộ 03 gói ma túy của T. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người liên quan, người làm chứng đều không có khiếu nại gì; nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng pháp luật. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi của bị cáo và vật chứng đã thu giữ, nên có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 24/11/2022 tại đường QL10 thuộc địa phận xóm 1, xã K; Tổ công tác của Công an huyện Y đã kiểm tra và thu giữ trong túi quần của T đang mặc 03 gói nhỏ bên trong mỗi gói đều có chất bột dạng cục màu trắng; T khai nhận đó là ma túy loại Heroine, T mua về để sử dụng. Theo kết luận giám định tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của T là 0,5208 gam đều là ma túy, loại Heroine.

Hành vi của bị cáo T là trái pháp luật, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về ma tuý, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo; bị cáo có bệnh teo cơ” theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Từ những tình tiết nêu trên, thấy rằng: Bị cáo T có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi liên quan đến ma túy, trong đó có 02 lần đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; nhưng T không tu dưỡng bản thân, không từ bỏ ma túy, mà còn thực hiện hành vi phạm tội; nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo; để cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung; bị cáo T có 02 tình tiết giảm nhẹ, nên giảm nhẹ một phần về hình phạt cho bị cáo, tương ứng với số tình tiết và mức giảm nhẹ của mỗi tình tiết mà bị cáo được hưởng. Bị cáo T không có tài sản, nên không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ gồm “0,5208 gam là ma túy loại Heroine, 01 ví da màu mâu, 01 bộ kim tiêm, 01 ống nước cất, 01 xe mô tô Wave biển kiểm soát 35M1-xxxx”.

- Xe mô tô Wave biển kiểm soát 35M1-xxxx là tài sản của bà T2; bà T2 không biết T sử dụng xe mô tô vào việc phạm tội, nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho bà T2.

- Đối với 0,5208 gam là ma túy; sau giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B chỉ hoàn lại 0,4062 gam ma túy; 03 mảnh giấy thu giữ ban đầu của T, vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong, 01 bộ kim tiêm, 01 ống nước cất, 01 ví da; tất cả tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Duy T 27 (hai mươi bảy) tháng tù; thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/11/2022.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy gồm:

- 01 phong bì của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B niêm phong, bên ngoài có ghi nội dung “Mẫu vật hoàn trả gồm: M1=0,1571 gam, M2=0,0174 gam, M3=0,2317 gam đều là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong”.

- 01 phong bì của Công an huyện Y niêm phong ký hiệu N, mặt ngoài có ghi nội dung “03 mảnh giấy dùng để gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ ban đầu của Nguyễn Duy T + Vỏ phong bì ký hiệu M”.

- 01 bộ xi lanh kim tiêm, 01 lọ nước cất ghi nhãn hiệu Novocain 3%, 01 ví da màu nâu nhãn hiệu Boss.

Tất cả vật chứng có đặc điểm tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/02/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Duy T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về