Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 169/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 169/2020/HS-ST NGÀY 22/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 111/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 155/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 294/2020 ngày 16 tháng 4 năm 2020 đối với:

Bị cáo Phạm Văn Đ; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 07 tháng 7 năm 1974, tại Hải Phòng; Nơi đăng ký thường trú: khu phố A, phường B, Thành phố C, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: buôn bán; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không; Trình độ học vấn: 12/12; Họ tên cha: Phạm Văn G, sinh năm 1950 (còn sống); Họ tên mẹ: Trần Thị K, sinh năm 1950 (còn sống); Gia đình có 03 (ba) chị em, bị cáo là con đầu; Vợ: Vũ Thị Đ, sinh năm 1982; Con: 1. Phạm Đ N, sinh năm 1996; 2. Phạm Bình M, sinh năm 2000; 3. Phạm Tuyết C, sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Có 01 tiền án: Ngày 23/12/2004 bị Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chưa được xóa án tích.

Bị bắt quả tang ngày 13/11/2019, hủy bỏ quyết định tạm giữ theo quyết định số 7654 ngày 22/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Biên Hòa. Hiện đang bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 13 tháng 11 năm 2019, Phạm Văn Đ đến phòng Vip 2, quán karaoke Hòa Nga ở địa chỉ khu phố A, phường B, thành phố T để dự sinh nhật theo lời mời của người bạn tên Yến (không rõ nhân thân lai lịch). Tại đây, ngồi hát được 10 phút thì Yến đưa cho Đ 01 viên ma túy tổng hợp (thuốc lắc) màu vàng đựng trong túi ni lông màu trắng. Đ cầm viên ma túy bỏ vào túi quần sau bên phải mà Đ đang mặc, mục đích cất giấu để sử dụng sau.

Khoảng 23 giờ 25 phút ngày 13 tháng 11 năm 2019, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Nai kiểm tra bắt quả tang Phạm Văn Đ đang tàng trữ 01 viên nén màu vàng, có in hình đầu lâu, đựng trong gói ni lông màu trắng (Đ khai là ma túy – thuốc lắc) giấu trong túi quần sau bên phải, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn Đ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Biên Hòa điều tra xử lý theo thẩm quyền.

- Vật chứng thu giữ gồm: 01 viên nén màu vàng, có in hình đầu lâu đựng trong gói nylon màu trắng (Phạm Văn Đ khai là ma túy tổng hợp “thuốc lắc”), đã được niêm phong, có chữ ký xác nhận của Phạm Văn Đ.

- Tại kết luận giám định số 1460/PC09-GĐMT ngày 15/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu 01 (một) viên nén màu vàng có hình đầu lâu được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3520 gam, loại Methaphetamine và MDMA.

Đối với người phụ nữ tên Y (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ) đã đưa ma túy cho Phạm Văn Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã tiến hành xác minh nhưng không biết đối tượng đang ở đâu, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 126/CT-VKSBH-HS ngày 27/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Phạm Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng điểm c Khoản 1, Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ từ 12 (mười hai) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Bị cáo Đ có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ 25 phút ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại phòng Vip 2, quán karaoke Hòa Nga ở địa chỉ khu phố A, phường B, thành phố C, tỉnh Đồng Nai, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Đồng Nai kiểm tra bắt quả tang Phạm Văn Đ có hành vi tàng trữ 0,3520 gam, loại Methaphetamine và MDMA.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 126/CT-VKSBH-HS ngày 27/02/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Văn Đ bị Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” vào ngày 23/12/2004, chưa được xóa án tích (bị cáo chưa thi hành tiền bồi thường thiệt hại cho bị hại) nên được coi là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có cha ruột là thương binh thuộc diện gia đình chính sách; bị cáo có cha mẹ già đều trên 70 tuổi, là lao động duy nhất trong gia đình có xác nhận của địa phương được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Đ để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ tên Y (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ) đã đưa ma túy cho Phạm Văn Đ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã tiến hành xác minh nhưng không biết đối tượng đang ở đâu, dó đó Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

Vật chứng được kết luận là ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính ngày bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2019 đến ngày 22/11/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 1460/PC09-GĐMT ngày 15/11/2019. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05 tháng 03 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Phạm Văn Đ phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo Phạm Văn Đ được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 169/2020/HS-ST

Số hiệu:169/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về